Kín cổng cao tường – Thành ngữ dân gian quen thuộc

Truyện Kiều là một tác phẩm có sự xuất hiện nhiều nhất của thành ngữ, tục ngữ. Bậc đại thi hào Nguyễn Du đã vận dụng một cách tinh tế và khéo léo vốn ngôn ngữ dân gian, khiến áng thơ trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.

Trong số đó phải kể đến “Kín cổng cao tường”, dùng để chỉ những nơi thâm nghiêm mà người thường không thể đặt chân tới. Cho đến ngày nay, nó vẫn được vận dụng một cách phổ biến ở đời sống sinh hoạt hàng ngày.

Kín cổng cao tường
Kín cổng cao tường – Thành ngữ dân gian quen thuộc

Ý nghĩa của thành ngữ Kín cổng cao tường

Thành ngữ này được cấu tạo bởi hai vế đối xứng có ý nghĩa ngang bằng nhau, mượn hình ảnh quen thuộc là “cổng” cũng như “tường”. Nó diễn tả những nơi cao rộng và mang tính cơ mật, không phải ai cũng có thể đến.

Bên cạnh đó, “Kín cổng cao tường” còn được sử dụng để chỉ những dinh cơ sang trọng và nguy nga. Với nét nghĩa này, nó góp phần thể hiện mức độ giàu có của lớp người thượng lưu, giàu có.

Ngoài ra, cách nói đậm chất dân gian này còn ngầm ám chỉ các cô gái ăn mặc lịch sự, trang nhã. Họ là những người có phẩm chất thanh khiết tựa bông sen.

Sự xuất hiện của thành ngữ Kín cổng cao tường trong Truyện Kiều

Nguyễn Du được ví như vì tinh tú trong bầu trời văn học nghệ thuật nước nhà. Ngòi bút ông luôn thể hiện sự nâng niu và trân trọng lời ăn tiếng nói của nhân dân lao động.

Truyện Kiều là một áng văn nôm đặc sắc nhất của nhà thơ, được sáng tác vào đầu thế kỷ XIX. Bên cạnh việc tái hiện xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, ông còn khắc họa chuyện tình trầm buồn, dở dang giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.

Cả hai nhân vật đều xuất thân trong gia đình danh giá, sở hữu dung mạo và tài năng hơn người, cũng chính vì điều này mà họ đem lòng mến mộ đối phương.

Từ lần đầu tiên tình cờ gặp gỡ, Kim Trọng đã tương tư và nhung nhớ người con gái tài sắc vẹn toàn. Chàng thậm chí còn chểnh mảng học hành, luôn mong ngóng được gặp Thúy Kiều.

Trong chi tiết Kim Trọng tìm gặp Thúy Kiều, tác giả đã vận dụng thành ngữ “Kín cổng cao tường” để miêu tả dinh cơ nhà họ Vương. Nó khiến chàng nho sinh phải dừng bước, trầm ngâm một hồi lâu.

“Thâm nghiêm kín cổng cao tường

Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.” – Truyện Kiều

Không chỉ vậy, câu thành ngữ còn góp phần miêu tả tâm trạng của nhân vật Kim Trọng. Đứng trước bức tường ngăn cách khó mà vượt qua, dường như trong lòng chàng cũng có một dự cảm chẳng lành về mối duyên chớm nở này.

Kín cổng cao tường và tác phẩm Năm tôi mười ba tuổi

Năm tôi mười ba tuổi là tập hồi ký dung dị và trĩu nặng tình người của tác giả Nguyễn Kiên. Tác phẩm đã tái hiện chân thực bức tranh làng quê Hà Đông những năm kháng chiến chống Pháp.

Thông qua ngòi bút miêu tả tỉ mỉ của văn sĩ,độc giả như được phiêu du vào trang sách, cảm nhận hơi thở từ đất đai cũng như con người nơi đây. Tuy cuộc sống còn lắm vất vả đau thương, họ vẫn dìu dắt nhau đi qua cả một thời kỳ chiến đấu ác liệt.

Trong tác phẩm, Nguyễn Kiên cũng đã vận dụng thành ngữ “Kín cổng cao tường” để dựng nên sự tương phản giữa xưa và nay. Dinh thự sang trọng từng tấp nập người giờ lại trở nên trống vắng, hiu quạnh đến lạ thường.

“Cái cơ ngơi kín cổng cao tường của nhà lý Ngưỡng lại bỏ trống hoang.” – Năm tôi mười ba tuổi

Dưới đôi mắt hồn nhiên của trẻ thơ, dáng vẻ tàn lụi ấy càng hiện lên rõ ràng và sâu sắc hơn. Qua đó, Nguyễn Kiên đã lột tả được sự tàn phá ác liệt do chiến tranh gây ra.

Cơ ngơi kín cổng cao tường trong Nhà mẹ Lê

Nhà mẹ Lê là truyện ngắn có sự giao hòa giữa chất hiện thực cũng như lãng mạn. Thạch Lam đã dùng cả trái tim cùng bầu máu nóng để dệt nên một áng văn chương đầy đau đớn và cảm động về kiếp người.

Lần giở từng trang viết, độc giả sẽ bắt gặp hai hình ảnh trái ngược và mang tính ẩn dụ. Nếu mẹ Lê cùng các con phải chen chúc ở căn nhà nhỏ hẹp thì gia đình phú hộ Bá giàu có lại sống trong dinh thự sang trọng với nhiều   thứ đồ quý giá.

“Bác nhớ lại cải cảnh sang trọng, ấm cúng trong nhà ông Bá. Những chậu sứ, câu đối thếp vàng sáng chói.” – Nhà mẹ Lê

Thạch Lam không sử dụng quá nhiều từ ngữ và chi tiết để miêu tả, thay vào đó ông đặt nó cạnh gian nhà lụp xụp của những người dân xóm ngụ cư. Vì vậy, dinh thự “kín cổng cao tường” ấy càng trở nên rõ ràng hơn, thể hiện sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội đương thời.

Qua đó, văn sĩ đã phản ánh những mặt tối tăm của nông thôn Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Không chỉ vậy, ông còn gửi gắm vào tác phẩm nỗi niềm đồng cảm, thương xót cho các phận đời truân chuyên, bất hạnh.

Lên đầu trang