“Đồng không mông quạnh” là một câu thành ngữ gần gũi trong dân gian, dùng để chỉ nơi không gian trống trải và hiu quạnh. Nó không những xuất hiện trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân Việt Nam mà còn cả bài dân ca Bình Trị Thiên quen thuộc.

Ý nghĩa của thành ngữ Đồng không mông quạnh
Thành ngữ “Đồng không mông quạnh” sở hữu cấu trúc đối xứng, bao gồm hai vế có ý nghĩa ngang bằng nhau. Trong đó, “mông” vốn là một từ cổ chỉ bãi đất trống ở giữa cánh đồng.
Cách nói đậm chất dân gian này được sử dụng để miêu tả những vùng không gian vắng vẻ, hoang vu đến mức khiến con người cảm giác choáng ngợp vì cô đơn.
Sự xuất hiện của Đồng không mông quạnh trong dân ca Bình Trị Thiên
Dân ca Bình Trị Thiên là một thể loại âm nhạc dân gian, được gìn giữ và lưu truyền cho đến tận ngày nay. Nó không chỉ thể hiện sự phong phú của ngôn ngữ dân tộc mà còn chứa đựng những ước vọng tốt đẹp về cuộc sống.
Trong bài dân ca này, tác giả dân gian cũng đã vận dụng thành ngữ “Đồng không mông quạnh” để diễn tả tình cảnh đáng thương của các nhân vật trữ tình. Chàng trai phải sống một mình nơi hiu vắng còn cô gái vẫn cứ ngóng trông, mong chờ người yêu ở phương xa.
“Chàng về đồng không mông quạnh, gió lạnh sương sa
Em ở nhà lụy lâm, lâm lụy nước mắt sa theo chàng”. – Dân ca Bình Trị Thiên
Chi tiết này đã thể hiện tình cảm sắc son mà cô gái dành cho chàng trai. Đây cũng là một nét đẹp trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, luôn thủy chung và hết lòng với người mình yêu.
Thành ngữ Đồng không mông quạnh và tác phẩm Đêm hỏa châu
Đêm hỏa châu là một thi phẩm xúc động của nhà thơ Đoàn Thuận, nằm ở tập Mùa bấc biển xuất bản năm 1995. Nó tựa như cuốn nhật ký ghi lại những suy tư trong phút giây xa rời quê hương, chạy trốn khói lửa quân thù.
Xuyên suốt tác phẩm là những nỗi nghẹn ngào, day dứt trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Kẻ lữ khách phải chia lìa quê ngoại dấu yêu, một mình nơi phương trời xa lạ.
Để nhấn mạnh tâm trạng rối bời ấy, tác giả Đoàn Thuận đã vận dụng thành ngữ “Đồng không mông quạnh”. Nó khiến sắc thái câu thơ trở nên da diết hơn, lay động trái tim những đứa con xa nhà.
“Trời một phương mơ nắng ngàn phương
Giữa tăm tối đồng không mông quạnh.” – Đêm hỏa châu
Với bài thơ Đêm hỏa châu, thi sĩ đã tái hiện cả một thời kỳ đau thương của dân tộc. Đồng thời, ông cũng gửi gắm vào đó niềm hy vọng, sự lạc quan về ngày mai tươi sáng, đất nước không còn bị chia cắt bởi bom đạn kẻ thù.
Không gian đồng không mông quạnh trong Qua đèo ngang
Bà Huyện Thanh Quan là một trong số ít thi sĩ có tài năng văn chương đặc biệt của nền văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Hầu hết các áng thơ ca do bà chấp bút đều phảng phất sự trầm buồn và cô đơn trước thời đại đầy biến động.
Qua đèo ngang là thi phẩm tiêu biểu cho ngòi bút thấm đượm suy tư ấy. Nữ thi sĩ đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên nơi đèo Ngang tuyệt đẹp nhưng hoang sơ, tiêu điều, đậm nét “đồng không mông quạnh”.
Sự vắng vẻ đó khiến nhân vật trữ tình, tức là Bà Huyện Thanh Quan càng cảm thấy nhỏ bé và cô đơn hơn. Trong không gian ấy, chỉ một chuyển động, âm thanh nhỏ cũng đủ sức gợi dậy nỗi niềm “hoài cố” luôn bủa vây lấy trái tim thi sĩ.
Vì vậy, khi nghe thấy tiếng quốc kêu, nhà thơ đã trực tiếp bộc lộ tấm lòng “nhớ nước thương nhà”. Đây cũng chính là tâm trạng chung của những bậc thi nhân trong xã hội đương thời.
Ở tác phẩm, Bà Huyện Thanh Quan còn sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình quen thuộc trong thi ca trung đại. Bà lồng ghép vào những câu thơ khắc họa khung cảnh nỗi nhung nhớ quê nhà sâu sắc và luyến tiếc về một thời vàng son đã qua.
Bao trùm lên bài thơ là nỗi niềm u hoài của một kẻ sĩ nuối tiếc quá khứ huy hoàng. Nó dần trở thành nguồn cảm hứng mĩ học, chi phối đến tư tưởng cũng như thế giới quan thi sĩ.