Một trong số những tác phẩm mở màn cho phong trào “thơ Mới” là bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Tác giả mượn hình ảnh chúa sơn lâm lúc sa cơ trong cũi sắt để nói về thực trạng tầng lớp trí thức bấy giờ với biết bao dằn vặt, đau khổ khi bị thực dân Pháp xâm lược.

Thi phẩm đã đọng lại trong tâm trí người đọc biết bao cảm xúc, giọng điệu bi tráng bao trùm toàn bộ sáng tác giúp độc giả cảm nhận rõ vẻ oai phong của chúa sơn lâm trong quá khứ, ẩn sau đó là gửi gắm nỗi uất ức về bi kịch của cả một thời đại.

Thế Lữ là ông hoàng thi ca của giai đoạn đầu Thơ mới

Thế Lữ chính tên là Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Tuy nhiên, ông lại sinh sống ở Lạng Sơn từ bé cho tới năm mười một tuổi, sau đó chuyển xuống Hải Phòng để theo học bậc Thành chung.

Thế Lữ là ông hoàng thi ca của giai đoạn đầu Thơ mới

Học Thành chung đến năm thứ ba thì Thế Lữ lại bỏ dở để đi theo sở thích nghệ thuật riêng, lên Hà Nội học trường Mỹ thuật được một năm nhưng lại thôi ngay. Giai đoạn này ông bắt đầu chuyển sang sáng tác văn chương, trở thành thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn.

Bên cạnh sáng tác văn chương, nhà thơ còn chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói và trở thành diễn viên, đạo diễn, biên kịch giai đoạn đầu của nền điện ảnh Việt Nam. Trong những năm cùng nhân dân kháng chiến chống Pháp, Thế Lữ vẫn tham gia hoạt động nghệ thuật đầy sôi nổi.

Bút danh Thế Lữ phù hợp với quan niệm sống của nhà thơ, mang ý nghĩa “người khách đi qua trần thế”. Ngoài ra trong sự nghiệp cầm bút, ông còn sử dụng các bút danh khác như Nguyễn Khắc Thảo, Lê Ta nhưng không được đông đảo công chúng biết đến.

Thế Lữ là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào “thơ Mới”, được nhà phê bình văn học Hoài Thanh đánh giá “như vừng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam, chỉ điềm nhiên bước từng bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ”.

“Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai của thơ mới.” – Nhà thơ Phan Khôi

Khuôn khổ ngàn năm của lối thơ cũ đã bị Thế Lữ phá đi, thay vào đó là những con chữ táo bạo nhưng vẫn phảng phất nét thơ mộng, lãng mạn, có lẽ ông không nỡ rũ bỏ những giấc mộng nên thơ của thời trước. 

Thơ Thế Lữ đẹp, cả lời lẫn ý đều mềm mại và trau chuốt. Tuy nhiên hình tượng thơ mà tác giả sử dụng lại chưa bước ra khỏi vùng an toàn, ít biến hóa dẫn tới việc tác phẩm trở nên đơn điệu, mất đi sự phá cách mà ông dày công xây dựng.

Sau khi hiệp định Genève được ký kết, Thế Lữ vẫn hăng hái tham gia các hoạt động nghệ thuật và giữ chức Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam suốt hai mươi năm, từ năm 1957 đến năm 1977.

Năm 1984, nhà thơ được Nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Đến năm 2000, ông tiếp tục được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật. Thế Lữ qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào giữa năm 1989, hưởng thọ 81 tuổi.

Nhớ rừng là khúc tráng ca gợi nhớ lại thời vàng son của nước nhà

Bài thơ Nhớ rừng được Thế Lữ chắp bút năm 1934, ra đời trong hoàn cảnh đất nước đang chịu cảnh lầm than dưới gót giày đô hộ của thực dân Pháp. Nỗi chán ghét thực tại bộc lộ một cách rõ rệt thông qua những hình ảnh giàu sức gợi.

Nhớ rừng là khúc tráng ca gợi nhớ lại thời vàng son của nước nhà

Có độc giả cho rằng Nhớ rừng lấy cảm hứng từ hai thi phẩm khác là Der Panther (Con báo) của Rainer Maria Rilke (Áo, 1875 – 1926) và bài Tyger (Con hổ) của William Blake (Anh, 1757 – 1827).

Gần một thế kỷ đã trôi qua song mỗi khi những vần thơ Nhớ rừng vang lên thì độc giả vẫn cảm nhận rõ tâm trạng u uất, cay đắng, đầy ám ảnh mà chúa sơn lâm phải chịu đựng khi mất tự do, đồng thời ẩn dụ cho cuộc sống nhân dân Việt Nam thời đó.

Thế Lữ cùng các thi sĩ thuở ấy đã phản ánh khá trung thực tâm trạng tầng lớp thanh niên tiểu tư sản, đem lại một tiếng nói mới và góc nhìn mới về nỗi trăn trở, bế tắc trước hiện trạng của đất nước lúc bấy giờ.

Tuy nhiên có nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá rằng, “thơ Mới” phần lớn là mang lại tiêu cực, bởi các nhà thơ đi sâu vào thế giới nội tâm con người, chủ yếu khai thác bản thể và trốn tránh khỏi thực tại.

“Nhìn chung “thơ Mới” đắm chìm trong buồn rầu, điên loạn, bế tắc. Đó là chưa nói đến phần hiển nhiên là sa đọa. Nguy hiểm nhất là nó lại tạo ra một thứ say sưa trong đó. Hình như không buồn rầu, không điên loạn, không bế tắc thì không hay, không sâu. Bế tắc đã biến thành một thứ lý tưởng. Một thứ lý tưởng như thế bao giờ cũng nguy hiểm, trong một hoàn cảnh cần phải đấu tranh quyết liệt càng nguy hiểm. Cho nên mặt chính của “thơ Mới” phải nói là tiêu cực. Ngay những nhân tố tích cực cũng chìm ngập trong không khí bế tắc ấy không gỡ ra được.” – Nhà phê bình Hoài Thanh nhấn mạnh trong cuốn Một vài ý kiến về phong trào “thơ Mới”.

Ở Thế Lữ có một điểm khác biệt, ông không trốn tránh khỏi thực tại như những thi sĩ đương thời mà dùng ngòi bút của mình để bày tỏ khát vọng được giải phóng khỏi những giam cầm tù túng, mong muốn quay lại thời vàng son oanh liệt.

Nỗi u uất của chúa sơn lâm khi nằm trong cũi sắt thấm đẫm từng câu thơ

Bài thơ Nhớ rừng ra đời khi đất nước đang bị nhấn chìm trong lầm than, khổ cực, tâm trạng của chúa sơn lâm cũng đồng điệu với bi kịch mà nhân dân phải ngày đêm gánh chịu. 

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,

Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,

Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm” – Nhớ rừng

“Đệ nhất thi sĩ” của phong trào “thơ Mới” đã dùng chữ rất sáng tạo, “gậm” chứ không phải là “ngậm”, thể hiện trạng thái của chúa sơn lâm đang ngày đêm gặm nhấm nỗi căm hờn.

Nỗi u uất của chúa sơn lâm khi nằm trong cũi sắt thấm đẫm từng câu thơ

Tư thế “nằm dài” đầy chán chường và mệt mỏi, nó dường như đã bị tước đi cái dáng vẻ uy nghiêm nơi thâm sâu mà bản thân vốn có. Thay vào đó chỉ là những sự u uất, cay đắng, tủi hờn khi nghĩ về thực trạng tối tăm chưa biết bao giờ mới thoát ra được.

Dẫu bất lực song đó chỉ là dáng vẻ bề ngoài, thẳm sâu trong tâm trí vị chúa của muôn loài ấy vẫn bừng bừng những kỉ niệm thời vàng son mãnh liệt, luôn khát khao cháy bỏng được trở lại nơi rừng thẳm.

Do đó mà “ông Hổ” mới có ánh nhìn khinh mạn như thế, tuy bất cần nhưng sự tủi nhục khi bị xếp chung với bọn gấu báo dở hơi, suốt ngày vô tư lự cũng vô cùng đau đớn. 

“Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.” – Nhớ rừng

Những dòng thơ trong Nhớ rừng cũng nói lên tâm trạng điển hình của tầng lớp trí thức tiểu tư sản thời bấy giờ. Với thân phận là kẻ mất nước, cuộc sống thì bị chế độ thực dân o ép, họ gần như rơi vào đường cùng, mất phương hướng, bế tắc, không lối thoát. 

Chính nhà thơ Tố Hữu trước khi tham gia Cách mạng cũng đã từng hoang mang, trăn trở:

“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước

Chọn một dòng hay để nước trôi.” – Dậy lên thanh niên

Trước kia nhà thơ Xuân Diệu thường nhắc đến hai chữ “đau đời”, đau vì kiếp làm dân một nước nô lệ, vì tủi nhục, nghèo hèn cứ gắn hoài với thân phận. Hình ảnh con hổ nằm dài trong cũi sắt cũng chính là phản chiếu cái bể khổ bế tắc của xã hội cũ.

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.” – Nhớ rừng

Hai chữ “ngày xưa” nghe sao xa vời vợi và dường như chẳng bao giờ có thể trở lại. “Thủa tung hoành” đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi đầy cồn cào và da diết.

“Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.” – Nhớ rừng

Thơ Thế Lữ đã được cách tân đầy mới mẻ, mới từ số câu, số chữ, cách gieo vần và những tiết tấu âm thanh. Ông dường như đã phá vỡ đi khuôn khổ ngàn năm không xê dịch của thơ xưa.

“Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được.” – Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân)

Nỗi nhớ cồn cào, khôn nguôi của chúa sơn lâm được làm nổi bật qua nghệ thuật ngắt nhịp linh hoạt 4 – 2- 3, 5 – 5, 4 – 2 – 2. Câu thơ trở nên cân xứng hơn, từ đó quá khứ vàng son cũng trở nên sống động và huy hoàng hơn.

Các động từ đặc tả như “gào, thét, hét” đã góp phần tăng sự bi tráng và hào hùng cho khúc trường ca. Có thể nói, khổ thơ trên là một trong những câu thơ đặc sắc nhất của ngòi bút Thế Lữ, cách tân hoàn toàn từ thể thơ cổ điển sang thể loại hiện đại.

“Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.” – Nhớ rừng

Những cảnh tượng như thước phim quay chậm hiện dần ra trong tâm trí chúa tể rừng xanh. Đại từ “Ta” bật lên đầy kiêu hãnh đã cho thấy thần thái uy lực, sánh ngang với đất trời rộng lớn nhưng nó cũng hiểu rằng quá khứ vàng son đã một đi không bao giờ trở lại, chỉ còn đó sự nuối tiếc vô vọng, vừa tự hào vừa đau thương.

Những câu thơ xuất sắc làm nên bức tranh tứ bình hoàn hảo cho Nhớ rừng

Người xưa nói “Thi trung hữu họa”, tức trong thơ thì có tranh, có cảnh. Do đó bằng chất liệu ngôn từ điêu luyện, Thế Lữ đã dùng ngòi bút để vẽ nên bức tranh tứ bình hoàn hảo cho tác phẩm của mình.

Những câu thơ xuất sắc làm nên bức tranh tứ bình hoàn hảo cho Nhớ rừng

Sau nỗi nhớ và sự hồi tưởng về thời oanh liệt vàng son, mãnh hổ trở nên đau đớn khi chợt tỉnh mộng giữa thực tại. Những câu hỏi cảm thán cất lên song không có tiếng trả lời vọng lại, quá khứ vẫn mãi chỉ là quá khứ cho dù có níu giữ bằng những kỉ niệm bi hùng.

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?” – Nhớ rừng

Chú hổ dũng mãnh đang đứng bên bờ suối, say sưa tắm mình trong màu vàng óng ả của ánh trăng, màu xanh mát từ núi non đại ngàn. Vị vua ấy say trong cảnh sắc lung linh kì ảo, tạo nên sự thơ mộng và hài hòa giữa núi non hùng vĩ.

“Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?” – Nhớ rừng

Những cơn mưa trong nơi rừng thiêng nước độc cũng trở nên dữ dằn, hung bạo, vạn vật chuyển mình bởi mưa giăng khắp chốn. Dẫu vậy, với thần thái uy nghi của vị vua nơi rừng thẳm, mãnh hổ vẫn không hề nao núng trước sự biến chuyển dữ dội ấy.

Tất cả những cảnh hùng vĩ cũng trở nên nhỏ bé khi thu vào mắt chúa sơn lâm. Nó lặng yên ngắm giang sơn của chính mình đang từng bước thay da đổi thịt. Đau buồn thay khi đó chỉ là những ngày xưa cũ của một thời quá vãng, xa vời vợi.

“Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?” – Nhớ rừng

Ở bức tranh bình minh này, độc giả cảm nhận được sự tươi mới, rộn ràng khi ánh mặt trời bắt đầu le lói nơi núi rừng xanh thẳm, làm bừng nét tươi tắn và đầy sức sống của thiên nhiên khi được gột rửa bằng những tia nắng mai trong trẻo.

Tiếng chim ca tưng bừng góp phần làm chúa sơn lâm sảng khoái vươn vai sau giấc ngủ hiền hòa, vị chúa tể được tự do làm những điều mà bản thân mong muốn chứ không phải cảnh kìm kẹp khi nằm trong cũi sắt tù túng kia.

“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?” – Nhớ rừng

Đây là bức tranh hoàng hôn được khắc họa bởi màu sắc của sự bi tráng. Gam màu đỏ rực như màu máu khiến bức tranh tứ bình trở nên đặc sắc, gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả song cuối cùng tất cả đã khép lại sau sự đau đớn tột bậc.

Thời oanh liệt dọc ngang tung hoành đã đóng lại sau ánh hào quang rực rỡ, chỉ còn lại tiếng than uất ức không có sự hồi đáp. Đây cũng là niềm tiếc nuối chung của nhân dân Việt Nam khi nhớ về chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang mà giờ đây đã nằm trong hồi ức.

Do đó, bài thơ được nhân dân đón nhận hết sức nồng hậu, say sưa như được đắm chìm lại những ngày tháng vàng son. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây tiếng vang trên văn đàn và tạo ấn tượng mạnh mẽ trong lòng công chúng.

Khát khao tự do sục sôi được khắc họa qua ngòi bút của ông hoàng thi ca

Được sống lại thời quá vãng huy hoàng qua từng dòng chảy ký ức, chúa sơn lâm càng thêm chán ghét cảnh tượng tầm thường ở nơi mình bị giam cầm. Hiện ra dưới ánh mắt khinh bỉ đó chỉ có sự bắt chước, học đòi đầy giả tạo.

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém;

Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,

Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.​” – Nhớ rừng

Mãnh hổ giờ đây chỉ còn biết ôm trong mình nỗi uất hận ngàn thu, khát khao trở lại với cái tự nhiên chân thực và cao cả. Càng đọc, độc giả lại càng thấy thương cho cuộc đời một chúa sơn lâm bởi nó cũng đang phản ánh tình cảnh nhân dân ta bấy giờ.

Khát khao tự do sục sôi được khắc họa qua ngòi bút của ông hoàng thi ca

Xuyên suốt bài thơ, Thế Lữ đã cảm nhận và phản chiếu thành công tâm trạng tù túng, u uất của con hổ khi bị nhốt trong cũi sắt, thông qua đó bày tỏ mong ước được bước chân ra khỏi thế giới tối tăm để sống lại thời vàng son một lần nữa. Đến với khổ thơ cuối thì khát vọng đó được bộc lộ mãnh liệt hơn bao giờ hết.

“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,

Nơi ta không còn được thấy bao giờ!

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!” – Nhớ rừng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, đó chính là chân lý cao cả của mọi thời đại. Mất tự do đồng nghĩa với mất hết, đau thương thay khi nhân dân Việt Nam phải chịu điều đó suốt hơn tám mươi năm thực dân Pháp đô hộ.

Ở khổ thơ cuối này, vị chúa tể rừng xanh chỉ còn biết cất tiếng kêu than cho dù xưa kia nó là mãnh hổ muôn loài kính sợ. Những tiếng gầm ai oán dần trở nên bất lực khi hi vọng trở lại quá khứ còn rất mong manh.

Tiếng gọi “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi” đầy thiêng liêng nhưng chua xót. Thực tại đau đớn của mãnh thú chốn sơn lâm trong Nhớ rừng càng khiến người đọc xúc động khi liên tưởng đến cuộc sống nhân dân ta hơn một trăm năm về trước.

Lời thơ da diết dưới ngòi bút ông hoàng thi ca Thế Lữ giúp độc giả càng thêm quý trọng cuộc sống tự do mà ông cha đã hi sinh xương máu để giành lấy. Ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm khiến thi phẩm trở nên đắt giá và ấn tượng hơn.

Hình ảnh “mãnh hổ” độc đáo đã giúp Thế Lữ thành công hơn trong việc truyền tải chủ đề tác phẩm. Giọng điệu lúc bi hùng, khi trầm lắng thiết tha là nhân tố cốt lõi làm nên sức lôi cuốn mạnh mẽ cho Nhớ rừng.

Tác phẩm tuy mở đầu cho phong trào “thơ Mới” song lại không đi theo hướng thoát ly khỏi mộng tưởng mà vẫn hừng hực một lòng yêu nước nồng nàn, thể hiện tấm lòng ái quốc cao đẹp, mong muốn vùng lên khỏi cuộc sống tối tăm mà nhân dân đang phải gánh chịu.

Tiểu Mai