Cá chậu chim lồng – Ý nghĩa, điển tích và sự vận dụng

Thành ngữ “Cá chậu chim lồng” được người xưa vận dụng phổ biến để diễn tả cuộc sống tù túng và bó buộc, không có tự do.

Cá chậu chim lồng
Cá chậu chim lồng – Ý nghĩa, điển tích và sự vận dụng

Ý nghĩa của thành ngữ Cá chậu chim lồng

Câu thành ngữ này này được cấu tạo bởi các vế có ý nghĩa tương đương nhau là “cá chậu” và “chim lồng”. Chúng đều thể hiện cuộc sống bị kìm hãm, trói buộc của hai loài động vật quen thuộc.

Vì vậy, “Cá chậu chim lồng” thường được người đợi sử dụng để thể hiện cuộc sống mất đi tự do, bị kìm hãm và bó buộc. Bên cạnh đó, nó còn có cách diễn đạt khác là “Chim lồng cá chậu”.

Điển tích thành ngữ Cá chậu chim lồng

Câu thành ngữ gần gũi này còn được lý giải bằng điển tích lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Chuyện kể rằng ngày xưa có một anh chàng nhà giàu nọ rất thích chơi chim cảnh, vì vậy đã nhốt con sáo ở lồng treo trước cửa nhà để mua vui.

Một ngày nọ, anh nhà giàu này lại bắt được con cá vàng, bèn thả vào chậu và đặt cạnh lồng chim. Hằng ngày, người chủ đều mang thức ăn ngon đến, ngắm nhìn vẻ đẹp của chúng.

Khi người chủ đi vắng, hai con vật mới trò chuyện và giãi bày nỗi niềm với nhau. Chúng đều thương cảm cho số phận của đối phương, không muốn sống trong cảnh bị giam giữ, bó buộc.

“Tôi muốn bay, muốn đậu, mặc sức, rồi líu lô suốt ngày trên vách đá cùng họ hàng chim muông. Giờ đây bị nhốt trong lồng, muốn đạp mà ra, tôi có hót là hót cho đỡ nhớ rừng, nhớ đàn, chứ nào có sung sướng gì.” – Chim sáo than thở với cá về tình cảnh của mình

Cuộc trò chuyện của đôi bạn cùng chung hoàn cảnh bị chú mèo ở gần đó nghe được. Nó vốn có ý định bắt chim và cá đã lâu, nay thấy vậy cũng chỉ đành ngậm ngùi thương xót, đồng cảm với hai loài động vật tội nghiệp.

Cuộc sống cá chậu chim lồng của Thúy Kiều trong Truyện Kiều

Nguyễn Du được ví như một vì sao sáng của nền văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Các sáng tác của ông đều có sự quyện hòa sâu sắc giữa giá trị hiện thực và nhân đạo, đề cao con người.

Truyện Kiều là một áng thi ca tiêu biểu cho phong cách văn học ấy của Nguyễn Du. Thông qua cuộc đời nhân vật Thúy Kiều, ông đã tái hiện thực trạng cuộc sống đau khổ với nhiều bất công mà người phụ nữ xưa phải gánh chịu.

Từ một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn sống những ngày tháng “êm đềm trướng rủ màn che”, Thúy Kiều đã phải bán mình để chuộc cha. Không chỉ vậy, nàng còn trải qua mười lăm năm lưu lạc khắp nơi, nhiều lần rơi vào tay kẻ xấu.

Người con gái này bị lừa và bán vào thanh lâu, chịu đựng những nỗi đau về mặt thể xác cả tinh thần. Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã khắc họa một cách chân thực tình cảnh buồn thương ấy của nàng.

Thúy Kiều đã phải sống những ngày tháng buồn tủi và cô đơn, bị kìm hãm tuổi xuân ở chốn xa lạ. Nàng tự ý thức được tình cảnh “cá chậu chim lồng” ấy của mình, vì vậy nhìn đâu cũng thấy nỗi sầu cô liêu.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.” – Thúy Kiều buồn tủi trước cuộc sống tù túng ở lầu xanh, xót xa cho phận đời éo le của mình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Để khắc sâu nỗi đau thân phận của nàng, Nguyễn Du đã vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình cùng các từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm. Qua đó, độc giả càng thấm thía cuộc sống tù túng, bị giam lỏng ở chốn lầu xanh mà Thúy Kiều phải đối diện.

Tinh thần lạc quan giữa cuộc sống cá chậu chim lồng trong Ngắm trăng

Không chỉ được biết đến là vị lãnh tụ đại tài của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh còn tham gia viết báo và làm thơ. Người đã biến câu chữ thành vũ khí chiến đấu, tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân vượt qua những thử thách khắc nghiệt trong thời chiến.

Ngắm trăng là một áng thi ca nổi bật thuộc tập thơ Nhật ký trong tù. Nó được sáng tác vào quãng thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở Quảng Tây, Trung Quốc.

Tuy bị giam giữ trong khoảng không gian chật hẹp và túng, Người vẫn không hề chán nản hay buồn rầu. Ngược lại, nhà thơ còn hướng tầm mắt mình ra khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ bên ngoài song sắt, đặc biệt là ánh trăng sáng.

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.” – Hoàn cảnh ngắm trăng đặc biệt của Bác trong thi phẩm Ngắm trăng

Dưới cách miêu tả của thi sĩ, vầng trăng dường như cũng thấu hiểu nỗi lòng Bác. Nó khẽ len lỏi qua khung cửa nhỏ để trở thành người bạn thân thiết, cùng Người giãi bày mọi tâm sự.

Dù đang trong tình trạng “cá chậu chim lồng” bị giam giữ nơi ngục tù song sắc, vị lãnh tụ Hồ Chí Minh vẫn giữ vững một tinh thần lạc quan, tìm thấy niềm vui từ những điều nhỏ bé. Đây cũng chính là nét đẹp tiêu biểu cho lối sống của Bác, trở thành tấm gương để nhân dân noi theo.

Ngắm trăng không đơn thuần chỉ là tác phẩm phác họa khung cảnh đêm trăng mà còn thể hiện cả tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác. Vì vậy, áng thi ca này đã vượt qua thử thách khắc nghiệt mang tên thời gian, neo đậu mãi nơi tâm hồn kẻ thưởng thức.

Lên đầu trang