Lòng dũng cảm nằm trong số phẩm chất cao quý của con người Việt Nam. Chính nó là yếu tố khiến dân tộc vượt qua nhiều cuộc chiến gian nan và khắc nghiệt, bảo vệ bờ cõi khỏi quân xâm lược.
Để con cháu đời sau khắc ghi và phát huy đức tính này, các thế hệ đi trước đã sáng tác nên nhiều câu thành ngữ, tục ngữ như “Gan vàng dạ sắt”, “Có cứng mới đứng đầu gió” hay “Dám nghĩ dám làm”. “Gan cóc tía” cũng không phải là ngoại lệ, được sử dụng rộng rãi đến tận thời nay.

Câu chuyện lý giải ý nghĩa thành ngữ Gan cóc tía
Thực chất, câu thành ngữ “Gan cóc tía” bắt nguồn từ một câu chuyện được truyền miệng trong dân gian. Theo đó, ở vùng núi nọ, có con cọp chuyên ỷ thế bắt nạt những động vật hiền lành khác.
Chứng kiến con cọp thường xuyên tác oai tác oái, chú cóc tía bé nhỏ vô cùng tức giận. Một ngày nọ, nó lấy hết can đảm cảnh cáo loài thú dữ kia không được tiếp tục làm càn.
Nhìn thấu dáng vẻ nhỏ bé và xấu xí của cóc tía, cọp không hề tỏ ra sợ hãi. Ngược lại, nó còn đòi thi nhảy để thị uy, khẳng định vị thế chúa tể sơn lâm vốn có.
“Được, tao chấp mày đứng trước, tau đứng sau, cả hai cùng nhảy.” – Cóc đồng ý với lời thách thức, đứng sau cọp để bắt đầu thi nhảy
Thế là cọp đứng trước, khi nhảy nó quật đuôi vài cái để lấy đà. Nhân lúc đối thủ không chú ý, cóc nhanh trí ngậm chặt đuôi chúa tể sơn lâm và kết quả văng xa hơn.
Khi cọp nhảy đến thì thầy cóc đã ở phía trước lại còn xa hơn mình, vô cùng nể phục và sợ hãi. Nó ra sức bỏ chạy, giữa đường thì gặp khỉ nên bèn kể đầu đuôi câu chuyện.
“Mày không biết ư? Ở đằng kia có con cóc xấu xí nhưng đáng sợ lắm, ta phải trốn nó đấy.” – Cọp kể lại với khỉ về sức mạnh phi thường của cóc tía
Nghe xong câu chuyện, khỉ nhăn răng cười to và yêu cầu được đưa đến chỗ cóc. Cọp bèn buộc nó vào lưng, chạy thật nhanh đến nơi vừa thi đấu ban nãy.
Khi thấy hai loài vật này đến cùng nhau, cóc tía đã nhanh trí nghĩ ra kế đánh đuổi chúng. Nó hô to quát mắng khỉ vì chỉ mang tới cho mình một con cọp.
“À, thằng khỉ kia, mày làm gì mà chậm chạp thế. Mày bảo trả nợ tao hai con cọp, sao bây giờ mới dẫn có một con đến, làm sao tao ăn đủ no.” – Cóc tía thông minh đã nảy ra kế khiến cọp sợ hãi
Cùng lúc đó, cọp tình cờ thấy ở miệng cóc tía một dúm lông của mình nên mắc mưu ngay. Nó quay đầu chạy thục mạng, khiến khỉ va đầu vào cây và chết từ lúc nào không hay.
Đến khi dừng, cọp thấy khỉ nhe răng nên rất tức giận và quăng nó ra xa. Kể từ đó, con vật được ví là chúa tể sơn lâm này cứ mỗi lần gặp cóc lại tìm cách trốn đi, cũng không dám hung dữ như trước nữa.
Thành ngữ “Gan cóc tía” ra đời từ nay, chỉ sự gan và lì lợm, dám đương đầu với thế lực mạnh hơn. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng để khuyên nhủ mọi người cần phải sống dũng cảm, biết đứng về phía lẽ phải.
Thành ngữ Gan cóc tía và truyện cổ tích Thạch Sanh
Thạch Sanh vốn là câu chuyện quen thuộc, gắn liền với tuổi thơ bao thế hệ. Nó chứa đựng những bài học nhân sinh giàu ý nghĩa, khẳng định chân lý lẽ phải luôn chiến thắng của nhân dân Việt Nam.
Tác phẩm kể về cuộc đời của chàng trai mồ côi cha mẹ tên là Thạch Sanh. Tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn và éo le, nhân vật ấy vẫn sở hữu tấm lòng nhân hậu cùng đức tính chăm chỉ, cần cù.
Bởi vì quá lương thiện, Thạch Sanh đã nhiều lần bị người anh em kết nghĩa Lý Thông tìm cách hãm hại. Khi bị lừa đến miếu Trăn Tinh, chàng không hề nao núng mà bình tĩnh đấu tranh với loài vật hung dữ, cuối cùng giành được chiến thắng.
“Thạch Sanh bình tĩnh trổ tài đánh nhau với Trăn Tinh, cuối cùng chàng chém được đầu nó, đốt xác nó thành thang.” – Thạch Sanh dũng cảm chiến đấu với Chằn Tinh
Trong tác phẩm, Thạch Sanh này còn chẳng màng nguy hiểm mà cứu công chúa ra khỏi hang động đại bàng. Sự dũng cảm ấy của chàng không khác gì ý nghĩa câu thành ngữ “Gan cóc tía”, dám chiến đấu với thế lực mạnh hơn.
Chàng chính là hình tượng về người quân tử chân chính được kết tinh từ niềm tin và hy vọng của nhân dân đất Việt. Cho dù nếm trải nhiều khó khăn, đến cuối cùng Thạch Sanh vẫn chiến thắng bằng lòng dũng cảm cũng như sự khôn ngoan.
Sự dũng cảm đậm chất gan cóc tía trong Rừng xà nu
Nguyễn Trung Thành là một cây bút trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, từng có quãng thời gian dài công tác ở chiến trường Tây Nguyên. Mảnh đất này đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, đi vào nhiều trang viết của ông.
Rừng xà nu nằm trong số truyện ngắn viết về vùng đất này, xen lẫn khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tác phẩm ra mắt công chúng lần đầu vào năm 1965, xoay quanh cuộc đời Cách mạng của anh hùng Tnú cũng như người dân làng Xô man.
Xuyên suốt truyện ngắn là những tấm gương anh dũng một lòng vì đất nước và dân tộc. Họ không màng đến bản thân mà luôn đứng về Cách mạng, chẳng bị khuất phục bởi sự đe dọa hay tra tấn từ phía quân thù.
Nổi bật trong số đó là Tnú, một chàng trai dũng cảm và được ví như niềm tự hào của cả buôn làng. Ngay từ nhỏ, nhân vật này đã làm công việc đưa thư cho Cách mạng, cùng dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.
Cho đến khi trưởng thành, dù bị giặc tra tấn dã và đốt cháy ngón tay, Tnú vẫn chẳng kêu van hay khai ra thông tin mật. Anh luôn khắc ghi truyền thống tốt đẹp của dân làng Xô man, quyết bảo vệ bằng mọi giá các chiến sĩ Cách mạng.
“Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy ở trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu rên. Anh Quyết nói: “Người cộng sản không thèm kêu van…” Tnú không thèm, không thèm kêu van.” – Tinh thần quật cường của nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu
Sự dũng cảm và kiên cường của Tnú cũng giống như ý nghĩa câu thành ngữ “Gan cóc tía”. Chàng trai trẻ ấy đã dám đương đầu với quân địch hùng mạnh mà không chút sợ hãi, chùn bước.
Thông qua hình tượng nhân vật Tnú và truyện ngắn Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã nêu cao tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhân dân Tây Nguyên. Đồng thời, ông cũng bày tỏ cả sự nể phục, kính trọng đến những người anh hùng thầm lặng ấy.