Thành ngữ “Giật gấu vá vai” ám chỉ việc làm ăn cỏn con và luẩn quẩn, không mang tính ổn định lâu dài. Trong xã hội hiện đại, cách nói này còn được sử dụng để thể hiện cảnh ngộ khó khăn của những người phải vật lộn sống qua ngày.

Ý nghĩa của thành ngữ Giật gấu vá vai
Cách diễn đạt gần gũi với dân gian này có cấu tạo gồm hai vế “giật gấu” và “vá vai”. Về mặt ngữ nghĩa trực tiếp, nó có thể được hiểu là lấy chỗ vải ở gấu áo đem vá vào phần vai bị rách.
Hình ảnh vai và gấu áo trong “Giật gấu vá vai” đại diện cho sự khó khăn, thiếu thốn về mặt vật chất. Như vậy, thành ngữ này ngụ ý chỉ những công việc nhỏ bé mang tính chắp vá nhất thời.
Ngoài ra, cách nói ấy còn chỉ tình cảnh cần giúp đỡ lẫn nhau. Điều này ngầm khẳng định, một khi con người có lòng nhân ái, đùm bọc lẫn nhau thì mới có thể vượt qua nghịch cảnh.
Ngoài “Giật gấu vá vai”, nền văn học dân gian Việt Nam còn có các thành ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự như “Vặt đầu cá vá đầu tôm” hay “Bốc tay sốt, để tay nguội”.
Câu chuyện về thành ngữ Giật gấu vá vai
Thành ngữ “Giật gấu vá vai” còn gắn liền với câu chuyện được truyền miệng trong dân gian. Theo đó, ở ngôi làng xưa, người kia chỉ có một chiếc áo mặc từ ngày này sang tháng nọ.
Vì mặc quá lâu ngày nên nó dần cũ và bị rách ở phần vai. Thấy gấu áo thòng lòng không có tác dụng gì, vai bèn xin mượn một miếng vải để vá cho mình.
Thoạt đầu, cái gấu không đồng ý nhưng sau khi nghe vai thuyết phục thì lại động lòng. Nó bèn cho phép người chị em ấy lấy đi một miếng vải của mình để vá phần bị rách.
“Chị cứ giật lấy một miếng của tôi mà để lên đó, ta đỡ đần nhau được chút nào hay chút ấy, miễn là vai áo chị đỡ hở ra, che kín được cho người là tốt rồi.” – Gấu đồng ý cho đi miếng vải của mình để lấp kín phần vai áo bị rách
Nhận được sự đồng ý, cái vai áo vô cùng vui mừng, cảm ơn phần gấu rối rít. Nó bèn bảo người nhanh chóng giật lấy miếng vải và vá kín chỗ bị rách.
Sau khi làm xong, phần vai được vá kín tuy nhiên chỗ gấu thì bị mất một vạt. Cái áo không còn hở lộ liễu như trước nữa nhưng lại trông rất xấu xí và buồn cười.
“Cả cái áo chỉ có ngần ấy vải, giật chỗ này vá vào chỗ khác bị rách thì tất yếu chỗ bị giật, bị xén bớt sẽ lại thiếu hụt. Đấy chỉ là biện pháp tạm bợ, để che giấu cái khiếm khuyết dễ bị lộ ra ngoài. Giật gấu vá vai là chỉ việc làm ăn luẩn quẩn cò con, không tạo ra được sự thay đổi lớn, lâu dài mà chỉ có tính chắp vá nhất thời.” – Trích từ tác phẩm Đi tìm điển tích thành ngữ
Trong câu chuyện này, việc lấy vải ở phần gấu vá cho vai áo chỉ mang tính tạm thời. Nó biểu thị hoàn cảnh khó khăn, cần sự trợ giúp từ những người xung quanh.
Những mảnh đời giật gấu vá vai trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê
Thạch Lam để lại dấu ấn khó phai mờ trong tâm hồn độc giả bởi một giọng văn nhẹ nhàng, hồn hậu. Ông đã chấp bút nên nhiều truyện ngắn vừa giàu yếu tố hiện thực lại thấm đẫm tính nhân văn như Hai đứa trẻ,Gió lạnh đầu mùa hay Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê.
Trong số đó, Nhà mẹ Lê là một tác phẩm cảm động viết về đề tài tình mẫu tử. Truyện lấy bối cảnh nông thôn Việt Nam trước thời kỳ Cách mạng tháng Tám, khi nhiều mảnh đời phải sống dưới cảnh thiếu tốn, nghèo nàn.
Nhà mẹ Lê xoay quanh cuộc đời mẹ Lê, người phụ nữ một mình nuôi dưỡng mười một đứa con. Gia đình chị phải sống trong căn nhà lá tồi tàn và sụp xệ, quanh năm làm mướn kiếm miếng ăn.
Trong đứa con tinh thần này, Thạch Lam không chỉ tái hiện hoàn cảnh sống vất vả của nhà mẹ Lê mà còn cả những người hàng xóm xung quanh. Ấy là bác Đối làm nghề kéo xe hay bác Hiền với gánh hàng xén ngày nào cũng đi quãng đường dài lên chợ bày bán.
Tuy khác nhau về lai lịch thế nhưng tất cả nhân vật ấy đều có một điểm chung, đó là phải chật vật mưu sinh. Họ làm đủ mọi việc “giật gấu vá vai” chắp vá sống qua ngày.
“Họ ở đâu đến đây kiếm ăn trong mấy năm trời làm đói kém, làm những nghề lặt vặt, người thì kéo xe, người thì đánh dậm, hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng.” – Những nhân vật thuộc tầng lớp thấp cổ bé họng phải vất vả với miếng ăn trong Nhà mẹ Lê
Tuy nhiên, các công việc đó chỉ mang tính tạm thời, không thể giúp họ vươn lên khỏi nghịch cảnh. Trong trang viết của Thạch Lam, khi việc kiếm ăn trở nên khó khăn, những nhân vật ấy thậm chí phải nhịn đói nhiều ngày liên tiếp.
“Còn thường thấy bác Đối kéo cái xe không, đi lảng vảng trong huyện và vợ bác cũng không hay nằm võng hát trống quân nữa. Bác Lê trong lúc ấy, đi khắp các nhà trong làng, xin làm mướn, nhưng các nhà có ruộng không ai mướn.” – Các nhân vật lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, thậm chí phải chịu đựng cảnh đói khát trong Nhà mẹ Lê
Đây cũng là tình cảnh chung của tầng lớp nông dân ở xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Họ bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất, phải đối mặt với nhiều khó khăn cùng thử thách trong cuộc sống.