Hịch tướng sĩ được chấp bút trước khi diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược lần hai. Đây là áng văn chương tuôn chảy từ trong dòng máu Lạc Hồng nhằm động viên binh lính đồng lòng đứng lên bảo vệ đất nước.

Hịch tướng sĩ xứng đáng là kiệt tác văn chương bất hủ của thời đại chống quân thù hừng hực hào khí Đông A. Tác phẩm đã đi vào lịch sử văn học như một bản anh hùng ca yêu nước bất diệt.

Trần Quốc Tuấn vang danh bậc anh hùng kiệt xuất của dân tộc

Trần Quốc Tuấn là nhà chính trị, quân sự, có tôn thất hoàng tộc nhà Trần. Sinh ra ở thôn Tức Mặc thuộc thành phố Nam Định ngày nay, tuy nhiên các ghi chép về năm sinh của ông cho đến nay vẫn không rõ ràng nên còn nhiều bí ẩn.

Trần Quốc Tuấn để lại tiếng tăm lẫy lừng qua việc chỉ huy quân đội đánh tan các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử ghi chép tên gọi vắn tắt là Trần Hưng Đạo thay cho cách gọi đầy đủ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.

Trần Quốc Tuấn vang danh bậc anh hùng kiệt xuất của dân tộc

Năm 1257, vua Trần Thái Tông phong cho ông làm đại tướng, chỉ huy các lực lượng ở biên giới đánh đuổi quân Mông xâm lược. Sau khi Mông Cổ thống nhất Trung Hoa và lập nên nhà Nguyên thì đã xua quân dọa đánh Đại Việt lần thứ hai.

Vốn sẵn trí thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn, có chí lo toan việc nước nên Trần Quốc Tuấn được Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. 

Với cương vị này, năm 1285, ông tiếp tục lãnh đạo quân sự, vạch ra chiến lược và bày binh bố trận nhằm đánh đuổi quân thù. Khi quân Nguyên tràn vào nước ta, đại quân phía Nam đã cố gắng làm chậm bước tiến của địch bằng cách rút lui để bảo toàn lực lượng và bỏ trống kinh thành Thăng Long.

Quân Nguyên lúc ấy bị phân tán mỏng, yếu thế về mọi mặt, Trần Quốc Tuấn khi nắm bắt thời cơ đã lập tức dẫn đội quân đầy nhuệ khí tiến ra phía Bắc phản công quyết liệt, chặn đường rút lui của địch tại Vạn Kiếp.

Dưới tài lãnh đạo quân sự của ông, Đại Việt đã dành chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng và thành công đuổi sạch giặc thù ra khỏi bờ cõi, ông vì thế được phong tước Hưng Đạo Vương.

Đến năm 1288, quân Nguyên không phục, trở lại xâm lược Đại Việt lần thứ ba. Vốn sẵn tài năng binh pháp và bản lĩnh quân tử, Trần Quốc Tuấn không ngại đương đầu với trận mạc, ông đã có lời khẳng định vô cùng rắn rỏi với vua Trần Nhân Tông.

“Năm nay đánh giặc nhàn.” – Trần Quốc Tuấn

Hưng Đạo Vương đã học hỏi Đức Vương Ngô Quyền áp dụng thành công chiến thuật, đánh bại hoàn toàn quân nhà Nguyên do Phàn Tiếp và Ô Mã Nhi chỉ huy trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, chiến công lẫy lừng khi xưa lần nữa được lặp lại.

Quân Nguyên thảm bại đành phải rút về nước và vĩnh viễn từ bỏ tham vọng thôn tính phương Nam. Năm 1289, vua Trần Nhân Tông chính thức gia phong Trần Quốc Tuấn làm “Đại vương” dù quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.

Sau đó, ông lui về Vạn Kiếp cho đến khi mất vào năm 1300. Trước lúc qua đời, ngôi sao ấy vẫn vụt sáng bởi tình yêu nước thương dân, Trần Quốc Tuấn đã có lời khuyên sâu sắc dành cho vua Trần Anh Tông. 

“Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ. Đó là thượng sách giữ nước.” – Trần Quốc Tuấn

Hưng Đạo Vương được tôn làm bậc anh hùng kiệt xuất của dân tộc bởi sự uyên bác trong binh thư, trí huệ sáng suốt, đức hạnh vẹn toàn, biết dùng người tài như Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng và rất trọng binh sĩ.

Ông đã thể hiện đầy đủ tài đức của một bậc quân tử đương thời gồm nhân, nghĩa, trí, dũng, tín. Cuộc đời của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn gắn liền với những chiến công oanh liệt, in đậm danh tiếng trong sử sách muôn đời. 

Ngoài ra, ông đã soạn hai bộ binh thư Binh thư yếu lượcVạn Kiếp tông bí truyền thư để răn dạy các tướng cầm quân đánh giặc, đặt nền móng cho nghệ thuật quân sự Việt Nam kể từ thời Trần đến nay.

Đặc biệt, Trần Quốc Tuấn còn để lại tác phẩm kinh điển cho nền văn học dân tộc khi chấp bút viết Hịch tướng sĩ nhằm khuyên răn binh sĩ học tập, nỗ lực rèn luyện võ nghệ, nhắc nhở các tướng noi theo trận pháp trong Binh thư yếu lược để chuẩn bị chiến tranh chống quân xâm lược.

Hịch tướng sĩ là tác phẩm rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định tài năng văn chương của bậc đại bút. Đó là áng văn chương yêu nước tuôn chảy từ dòng máu Lạc Hồng, thể hiện bản lĩnh quân sự của vị tướng tài ba.

Sau khi ông qua đời, nhân dân bao đời sùng kính, suy tôn thánh Đức Thánh Trần hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế. Đây là điều hiếm hoi trong lịch sử chỉ dành riêng cho vị danh tướng nhà Trần. 

Hịch tướng sĩ là dòng văn chương chảy trong máu Lạc Hồng

Tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua trao trọng trách làm Quốc công tiết chế. Đoán trước quyết tâm phục thù của quân Nguyên, ông chủ động mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Thăng Long và công bố bài Hịch tướng sĩ (Dụ chư tỳ tướng hịch văn).

Hịch tướng sĩ là dòng văn chương chảy trong máu Lạc Hồng

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282, đó là luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Thể văn này không theo công thức nào mà thường dùng văn xuôi hoặc văn biền ngẫu với các lý lẽ xác đáng để chinh phục tình cảm của quần chúng.

Trong văn học rất ít sáng tác thể loại này, Hịch tướng sĩ chính là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp trong thời đại chống quân Nguyên và cũng có thể xem như khúc tráng ca anh hùng sôi sục hào khí Đông A.

Bởi Hịch tướng sĩ sáng ngời chí khí anh hùng của dân tộc Đại Việt trong thời đại nhà Trần. Mục đích bài hịch hướng đến là khích lệ tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu của ba quân, đồng lòng dốc sức để chống quân xâm lược.

Mặt khác kêu gọi tướng sĩ nâng cao cảnh giác, rèn luyện võ nghệ và học tập Binh thư yếu lược (Binh gia diệu lý yếu lược) do ông biên soạn để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược lần hai. 

Hịch tướng sĩ là áng văn cổ có giá trị lịch sử quan trọng hàm chứa tình cảm yêu nước và sáng ngời khí phách anh hùng, đồng thời mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng tầm kiệt tác nền văn học trung đại thời Lý Trần.

Đây còn là tiếng nói hào hùng, nhiệt huyết của Bình Bắc đại nguyên soái, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng. Tuy nhiên cũng chất chứa nỗi lo buồn, niềm căm hận, sự khao khát về đất nước thái bình, thịnh vượng đã làm nên giá trị nhân văn cho tác phẩm.

Ở nhiều khía cạnh khác nhau, tác giả đều biểu lộ chí khí anh hùng, oai phong lẫm liệt. Vì thế trong bài Hịch tướng sĩ đã sục sôi bầu máu nóng, dòng văn chương tuôn chảy ra cũng từ đó.

Bằng ngòi bút tài ba, bậc tướng lĩnh của Đại Việt đã vạch trần âm mưu xâm lược và tội ác của quân Nguyên Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc, nêu cao tinh thần quyết chiến, sẵn sàng xả thân trận mạc để bảo vệ xã tắc nhà Trần.

Hịch tướng sĩ soi chiếu những tấm gương mà sử sách lưu danh

Mở đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã nêu ra những tấm gương về trung quân ái quốc đã được lưu danh trong sử sách nhằm khích lệ tinh thần của những người chiến sĩ.

Đó là Kỷ Tín một lòng phò trợ tướng lĩnh, khi bị bao vây đã đóng giả làm chủ tử, nhờ đó Lưu Bang có thể trốn thoát hay tướng Do Vu đã xả thân, chìa lưng ra đỡ cho Chiêu Vương trong lúc bọn cướp lấy giáo đâm.

Trần Quốc Tuấn có nhắc đến Dự Nhượng, một thích khách nước Tấn đời Chiến Quốc nổi tiếng là người nghĩa sĩ. Vì để trả thù cho chủ mà nuốt than hồng để thay đổi giọng nói, ngay cả thí thân cũng không quản ngại.

Ngoài ra còn nhiều tấm gương lịch sử khác được kể đến như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh hay là tướng lĩnh cuối đời Nam Tống, Vương Công Kiên đã lãnh đạo đội quân nhỏ nhưng khiến Mông Cổ phải rút lui.

Thời Nguyên thì có chỉ huy Cốt Đãi Ngột Lang xông pha nghìn trùng đánh bại quân Năm Chiếu. Họ đều là những bậc trung thần nghĩa sĩ mang hình mẫu lý tưởng của chế độ phong kiến, không ngại việc hi sinh bản thân vì nước, vì chủ.

“Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có?” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)

Các tấm gương nổi bật đã bước ra từ quá khứ xa xưa thời Hán, Đường cho đến gần nhất là Tống, Nguyên. Với cách dẫn chứng như vậy, tác giả đã làm tăng tính thuyết phục cho chân lý phổ biến mọi thời đại.

Trần Quốc Tuấn cho rằng đời nào cũng sẽ xuất hiện những bậc anh hùng hào kiệt sẵn sàng xả thân vì vận mệnh đất nước. Việc nhắc lại chân lý đó nhằm tác động tới nhận thức của các tướng sĩ.

Ông khéo léo nhắc nhở về bổn phận, trách nhiệm mà bậc nam nhi phải gánh vác ở thời chiến, từ đó khơi gợi ý thức trung thành của quân đội. Tương đồng với quan điểm hào kiệt, về sau Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo cũng khẳng định về điều đó.

“Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.” – Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi)

Đồng thời Trần Quốc Tuấn cũng đặt ra giả định nếu các bậc trung thần nghĩa sĩ thời xa xưa say mê tửu sắc hay “khư khư theo thói nữ nhi thường tình” thì không thể phò vua, giúp nước, lập những chiến công hiển hách.

Như vậy, ông đã khéo léo khuyên răn các tướng sĩ phải làm tròn trách nhiệm của quân tử, sẵn sàng hy sinh vì nước, tránh xa “thói đời”, nuôi ý chí và lý tưởng cao đẹp để trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, gieo tiếng thơm muôn đời.

Tội ác của giặc bị phơi bày dưới ngòi bút đầy bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn

Năm 1258, Mông Cổ cho quân xâm chiếm nước ta lần thứ nhất, tuy nhiên bị đánh bại thảm hại. Đến cuộc xâm lược lần hai năm 1285, trong suốt hai mươi bảy năm đó đất nước không ngày nào được thái bình.

Không chỉ Hưng Đạo Vương mà triều đình ai cũng thấy rõ sự tham lam, dã tâm của quân phương Bắc luôn ấp ủ âm mưu thôn tính Đại Việt. Sinh sống và lớn lên trong thời buổi đất nước loạn lạc, ông đã có những trăn trở, tâm tư trước sự ngang tàng, hống hách của giặc.

Tội ác của giặc bị phơi bày dưới ngòi bút đầy bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn

Trần Quốc Tuấn chia sẻ tâm tư về việc “sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan”, điều đó không chỉ riêng bản thân ông mà ngay cả các tướng sĩ đều đã và đang trải qua cùng nhau.

Như vậy, cương vị của mỗi người khác nhau nhưng nếu đất nước lâm nguy, độc lập dân tộc bị đe doạ, thậm chí là mất nước thì tất cả mọi người, dù địa vị cao hay thấp cũng sẽ cùng nhau chịu chung một nỗi nhục, nỗi đau.

Với giọng điệu xót xa, chứa đầy căm phẫn, hận thù, Trần Quốc Tuấn đã tái hiện thực trạng đau lòng đang diễn ra ở nước ta, khi bờ cõi Đại Việt đầy dấu chân vó ngựa của quân Mông Nguyên.

“Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)

Ông đã hệ thống lại sự việc và phác hoạ thành bức tranh sinh động về bọn giặc nhà Nguyên với hành động ngang ngược, láo xược. Dưới ngòi bút đầy bản lĩnh, vị tướng nhà Trần đã thú vật hóa chân dung và bản chất của chúng.

Hình ảnh bọn chúng hiện lên vừa hèn hạ, vừa tàn ác, mọi rợ đến mất hết tính người. Ông gọi bọn chúng là “lưỡi cú diều”, “thân dê chó”, “hổ đói” không những để vạch trần bản chất tham lam, bỉ ổi của giặc mà còn thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét cùng cực.

Với giọng văn tràn đầy nỗi phẫn uất, Hưng Đạo Vương bày tỏ nỗi đau đớn và xót xa trước nỗi nhục của quốc thể khi bọn giặc sỉ mắng triều đình, đất nước bị tàn phá, nhân dân chịu cảnh giày xéo.

Bằng cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh cùng giọng điệu mỉa mai, châm biếm, Trần Quốc Tuấn đã thành công lột tả sự hống hách, tàn bạo của bọn giặc Mông Nguyên qua hành động vơ vét của kho “đòi ngọc lụa”, “thu bạc vàng”.

Quân giặc ngang tàng không màng đến đời sống khổ cực, lầm than mà nhẫn tâm bòn mòn sức lao động nhân dân. Tội ác tày trời ai nấy đều thấy rõ, vậy mà bọn chúng vẫn điêu ngoa, xảo trá khiến vị tướng không khỏi đau lòng, lo lắng cho vận nước.

Bằng nhãn quan chính trị sâu sắc, ông nhìn rõ âm mưu của chúng nên ngầm nhắc nhở tướng sĩ nếu cứ tiếp tục cam chịu cho lũ giặc tung hoành thì chẳng khác gì đem thịt dâng cho hổ đói. Quân Nguyên giả danh mượn đường để đánh Chiêm Thành nhưng thực chất là hăm he cướp nước ta.

Nỗi căm hận dâng lên đến đỉnh điểm, ông bộc lộ tâm thế quyết không đội trời chung với lũ giặc phương Bắc và theo sau đó là hàng loạt khí thế chiến đấu hừng hực, tinh thần yêu nước mãnh liệt của vị chủ tướng thống lĩnh đại quân.

Hịch tướng sĩ nổi bật bởi tấm lòng cao cả của vị tướng quân

Nếu cả bài Hịch tướng sĩ nổi bật với hình tượng cái tôi trữ tình yêu nước của chủ soái Trần Quốc Tuấn thì đoạn trích sau đây chính là phần tiêu biểu phản ánh tình cảm cao đẹp, khí thế hùng tráng, thể hiện một phong thái tuyệt vời với hào khí Đông A.

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)

Với tình hình đất nước rơi vào thảm kịch như hiện tại, tác giả vô cùng trăn trở, thương xót mà đứng ngồi không yên. Quân giặc tàn phá quê hương, dân chúng rơi vào cảnh lầm than khiến cảm xúc của ông có sự chuyển biến mạnh mẽ.

Hịch tướng sĩ nổi bật bởi tấm lòng cao cả của vị tướng quân

Đoạn văn đã tô đậm tâm trạng sục sôi chất chứa trong trái tim vĩ đại luôn lắng lo cho vận mệnh đất nước. Tất cả trạng thái cảm xúc ấy dâng trào đến cực điểm khiến Hưng Đạo Vương băn khoăn đến mức quên ăn, mất ngủ, xót xa như đứt từng khúc ruột.

Sự phát triển tâm lý nhân vật trong bài hịch hoàn toàn phù hợp với chuyển biến tâm tư tình cảm của người anh hùng. Nỗi niềm ấy được chuyển hóa, nâng lên thành sự uất hận ngàn thâu, đau đáu trong lòng kẻ sĩ khi chưa rửa nhục cho tổ quốc, quyết không đội trời chung với giặc khi “xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù”.

Tấm lòng đau xót khôn nguôi khi đứng trước cảnh “nước mất nhà tan”, nhân dân rơi vào tình cảnh khốn khổ cùng lòng căm thù cháy bỏng là đòn bẩy thúc đẩy ý chí của Hưng Đạo Vương hành động dứt khoát, giết giặc cứu nước, hy sinh thân mình chứ không lùi bước, cúi đầu trước quân thù.

Qua đó, độc giả có thể cảm nhận tình yêu nước nồng nàn, mặt khác còn thấy được sự căm phẫn lũ giặc ngoại xâm và khao khát tiêu diệt bọn chúng, mặc cho bản thân có hy sinh thì vẫn vui lòng.

Bởi lẽ, ông hiểu rõ rằng việc một vị chủ soái thống lĩnh toàn quân nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, lý tưởng sẵn sàng xả thân vì nước là yếu tố rất quan trọng để làm gương và đánh thức tinh thần, ý thức trách nhiệm của các tướng sĩ.

Bên cạnh đó, một cá nhân dù tài giỏi cỡ nào cũng không thể làm nên chiến thắng, do đó cần có sức mạnh tổng hợp được tạo nên từ tập thể đồng lòng nhất quán trong tư tưởng và ý chí sẵn sàng xả thân vì đất nước.

Hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào chất chứa lòng căm thù giặc được bộc lộ một cách trần trụi cùng nỗi lòng đau xót trước vận mệnh dân tộc thể hiện mãnh liệt, xúc động như thế.

Bằng bút pháp nghệ thuật thậm xưng mang tính chất ước lệ, bài hịch văn vì thế mà có sức ngân vang lớn, để lại dấu ấn sâu đậm với người nghe bằng ngôn ngữ hào hùng, khí phách của vị chủ soái.

Sự khéo léo của bậc tướng tài khi dùng mối thân tình khích lệ quân sĩ

Không chỉ là một vị tướng tài ba, giàu lòng yêu nước, thương dân mà ông còn rất yêu thương và tôn trọng binh sĩ. Với giọng văn chất chứa tâm tư, tác giả đã khéo léo gợi nhắc những ân tình của một vị chủ soái với nghĩa quân của mình.

Ông xem họ như huynh đệ đồng cam cộng khổ, cuộc sống tuy vất vả nhưng không có khoảng cách chủ tớ, tình sâu nghĩa nặng hơn nữa khi họ từng vào sinh ra tử cùng nhau trên trận mạc với lý tưởng thiêng liêng vì đất nước.

“Không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)

Trần Quốc Tuấn đã khéo léo gợi nhắc đến mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ mỗi người. Điều đó được ông ví như Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước. 

Thế nhưng, trong lúc dân chúng lầm than đau khổ, quân sĩ lại mặc lòng, vô tư chiều theo đời sống của mình. Ông đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện sai lầm của tướng sĩ chẳng hạn như khi đất nước lâm nguy mà chỉ biết hưởng thụ cá nhân ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm, ham săn bắn, mê tửu sắc.

Trần Quốc Tuấn đưa ra những lí lẽ để phân tích phải trái, đúng sai để binh lính tự giác ngộ bản thân mình. Hành động này xuất phát từ ý chí quyết tâm đánh đuổi kẻ thù xâm lược, bộc lộ tâm trạng băn khoăn của chủ soái trước tình trạng tướng sĩ không chút mảy may quan tâm đến vận mệnh đất nước.

Để từ đó, ông vẽ ra viễn cảnh thảm hại khi các tướng sĩ giữ thái độ và hành động vô trách nhiệm với vận mệnh của đất nước thì sẽ mất đi tài sản đất đai, gia đình tan tác chia lìa, tính mạng có thể không giữ được mà thanh danh còn ô uế đến muôn đời.

Những lời giáo huấn của Hưng Đạo Vương có ý nghĩa rất sâu sắc, góp phần đánh thức những binh lính đang lạc lối và lầm đường trở lại con đường đúng đắn, đồng thời rèn luyện ý thức về trách nhiệm đối với nền độc lập dân tộc.

Sau đó, ông cũng đưa ra chỉ dẫn để thay đổi tình thế bằng cách trau dồi binh thư qua việc đọc Binh thư yếu lược, tích cực tập luyện “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.

Qua đó mới có thể làm tròn bổn phận bậc quân tử, bảo vệ đất nước mà còn đem lợi ích cho dòng họ, mang tiếng thơm lưu truyền muôn đời. Tác giả chỉ ra hai con đường đối lập để nâng cao ý chí tự giác, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh nhằm đem lại những điều tốt đẹp cho Tổ quốc.

Hịch tướng sĩ không chỉ là lời tuyên chiến mạnh mẽ với giặc mà còn mạnh mẽ khẳng định tư tưởng không đầu hàng hay thỏa hiệp đình chiến. Qua đó, thể hiện lòng quyết tâm gang thép, tinh thần chiến đấu quật cường của vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn.

Về mặt nghệ thuật, bài hịch được lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén kèm theo dẫn chứng thuyết phục. Giọng văn được biến đổi linh hoạt khi thì nhẹ nhàng chất chứa tâm tình, khi lại đau xót tràn ngập căm phẫn, lúc thì tươi vui nhưng cũng có phần nghiêm khắc, rắn rỏi.

Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của vị anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Đại Việt trường tồn.

Bức tâm thư nêu cao chủ nghĩa yêu nước thời đại chống quân Mông Nguyên

Hịch tướng sĩ là tác phẩm tràn đầy hào khí Đông A được thể hiện qua thái độ căm thù giặc, quan niệm mạnh mẽ về sự sống và cái chết có liên đới đến kiếp nô lệ hoặc tự do. Ở bất cứ góc độ nào, Hưng Đạo Vương cũng bộc lộ chí khí anh hùng lẫm liệt.

Chính sự khích lệ đi cùng với những lí luận sắc bén, Hịch tướng sĩ đã thúc đẩy ba quân bùng nổ khí thế và tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ đó, chuyển biến thành sức mạnh Sát Thát đạt đến những thắng lợi, chiến công lừng lẫy sử Việt.

 “Chương Dương cướp giáo giặc 

Hàm Tử bắt quân thù.” – Trần Quang Khải

Hịch tướng sĩ nổi tiếng với các chiến công như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng gắn liền với tên tuổi vị tướng tài ba Trần Quốc Tuấn. Tác phẩm là khúc tráng ca chống quân thù, tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tư thế hiên ngang của đất nước, con người Đại Việt.

Bức tâm thư nêu cao chủ nghĩa yêu nước thời đại chống quân Mông Nguyên

Không chỉ thế, Hịch tướng sĩ được biết đến như là một bức tâm thư hừng hực khí thế anh hùng của bậc chủ soái. Mặt khác, nhằm nêu cao chủ nghĩa yêu nước toàn dân tộc trong thời đại khốc liệt chống quân Mông Nguyên. 

Xuyên suốt thế kỉ XII và XIII, hàng chục quốc gia với cả trăm thành trì trải dài từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam, Trung Á tới sông Volga đều bị vó ngựa quân xâm lược Mông cổ giày xéo.

 “Không có một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt chúng ta, không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân Mông Cổ giày xéo.” – Nhà thơ Ác- mê- ni 

Vậy mà cả ba lần, quân Mông Nguyên tràn sang xâm lược nước ta đều bị đánh bại, buộc phải tháo chạy. Bởi lẽ, khối đại đoàn kết dân tộc luôn bền vững, tinh thần yêu nước của quân dân Đại Việt là bất diệt.

Bên cạnh tác phẩm Hịch tướng sĩ, các tướng sĩ đời Trần có một số anh hùng vừa cầm giáo, vừa cầm bút như Trần Quang Khải, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Những vần thơ của họ bao giờ cũng chứa chan niềm tự hào dân tộc.

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.” – Trần Nhân Tông

Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng Hịch tướng sĩ là một luồng gió mạnh, một nguồn lửa rừng rực nóng đúng lúc và thổi bừng lên những biểu hiện cần biến đổi của tinh thần dân tộc, mở ra bước ngoặt trọng đại cho lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII.

Dù đã trải qua hơn tám trăm năm nhưng Hịch tướng sĩ vẫn mãi là áng văn chính luận trường tồn theo thời gian bởi hào khí của thời đại anh hùng sục sôi nhiệt huyết, tràn đầy sức mạnh muôn vạn hùng binh.

Giai Kỳ