Truyện Kiều là một áng thơ ca thấm đẫm tinh hoa văn hóa dân tộc, được chấp bút bởi đại thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm chứa đựng rất nhiều câu thơ sâu sắc và giàu triết lý, phần nhiều trong số đó đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Thành ngữ “Hồng nhan bạc mệnh” là một trong số đó, được sử dụng phổ biến ở đời sống hàng ngày của nhân dân. Nó thể hiện sự mâu thuẫn không thể dung hòa giữa nhan sắc và phận đời người phụ nữ.

Ý nghĩa của thành ngữ Hồng nhan bạc mệnh
“Hồng nhan bạc mệnh” có nguồn gốc từ Truyện Kiều. Trong đó, “hồng nhan” ám chỉ người con gái xinh đẹp và “bạc mệnh” tức là cuộc đời truân chuyên, lắm sóng gió.
Nhà thơ nổi tiếng Trung Hoa Tô Đông Pha cũng từng chiêm nghiệm và rút ra triết lý “Tự cổ hồng nhan đa bạc mệnh”. Điều này có nghĩa là những người phụ nữ sở hữu diện mạo xinh đẹp thường mang thân phận hẩm hiu, bạc bẽo.
Thành ngữ này được vận dụng để thể hiện nghịch lý giữa nhan sắc và số phận. Ngoài ra, nó còn bộc lộ cả nỗi xót thương, cảm thông cho những người phụ nữ xinh đẹp nhưng lại có một cuộc đời éo le, nhiều sóng gió.
Trong kho tàng ngôn ngữ dân gian của dân tộc, còn có các thành ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự như “Phận má đào”, “Má đào phận bạc” hay “Giai nhân bạc mệnh”.
Hồng nhan bạc mệnh và điển tích về nàng Tề Cẩm Vân
Cuộc đời Tề Cẩm Vân ở đời nhà Đường, Trung Quốc là một minh chứng tiêu biểu cho thành ngữ “Hồng nhan bạc mệnh”. Nàng được biết đến khắp chốn với danh xưng đệ nhất mỹ nhân phường Kim Lăng, lại còn sở hữu tài năng cầm kì thi họa hơn người.
Một ngày nọ, nàng và nho sĩ Phú Xuân có duyên gặp gỡ, đem lòng yêu mến nhau. Tuy nhiên, không lâu sau đó, gia đình anh chàng gặp hoạn nạn khiến hai người phải chia xa.
Vì không muốn nhìn thấy người mình yêu chịu khổ sở, Phú Xuân đã khuyên Tề Cẩm Vân ở lại. Nàng chỉ đành gửi gắm tâm tư vào thi ca trong buổi chia ly đau đớn.
“Một nhắp men say vạn dặm tình
Có xuân nẫu ruột, não lòng oanh.
Nguyện đem hàng lệ làm mưa ấy,
Lưu giữ chàng, mai ở lại thành”.
Tề Cẩm Vân luôn chìm đắm trong nỗi nhớ nhung da diết, ngóng trông hình bóng Phú Xuân bị đày nơi phương xa. Nàng thậm chí không màng son phấn và cuối cùng ra đi một cách cô đơn, lạnh lẽo.
Thành ngữ Hồng nhan bạc mệnh và cuộc đời trắc trở của Thúy Kiều
Thành ngữ “Hồng nhan bạc mệnh” có nguồn gốc từ áng thi ca Truyện Kiều do Nguyễn Du sáng tác. Nó được dùng để thể hiện số phận hẩm hiu, trắc trở của người con gái tài hoa Vương Thúy Kiều.
Thúy Kiều vốn là một tiểu thư đài gác, sở hữu vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” khiến thiên nhiên cũng phải ganh ghét. Không chỉ vậy, nàng còn thông minh và nhạy bén, tinh thông những thứ tiêu dao cao quý.
Thế nhưng, cuộc đời của Thúy Kiều lại không hề yên bình mà trải qua muôn vàn sóng gió, thử thách. Nàng phải bán mình chuộc cha, lưu lạc khắp nơi và bị chà đạp về thể xác lẫn tâm hồn.
“Đau đớn thay, phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.” – Truyện Kiều
Trong tác phẩm, Nguyễn Du nhiều lần vận dụng cách nói này để diễn tả nỗi đau chồng chất của kiếp hồng nhan. Ông còn gói ghém vào câu chữ sự xót thương, cảm thông cho nàng cũng như người phụ nữ thời phong kiến nói chung.
Kiếp hồng nhan bạc mệnh trong tác phẩm Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương được ví như một nữ sĩ tài hoa và độc đáo của nền văn học nước nhà thời kỳ trung đại. Các áng thơ do bà viết ra đều phản ánh rõ nét thân phận người phụ nữ Việt Nam truyền thống, đặc biệt là vẻ đẹp hình thể lẫn tâm hồn.
Bánh trôi nước là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã phơi bày những bất công và đau khổ mà phụ nữ xưa phải gánh chịu, đồng thời đề cao phẩm chất tốt đẹp nơi tâm hồn họ.
Dưới ngòi bút tác giả, cuộc đời lênh của người phụ nữ ngày xưa cũng giống như chiếc bánh trôi nước lênh đênh ba chìm bảy nổi. Sở hữu nhan sắc xinh đẹp là thế nhưng họ không được làm chủ vận mệnh mình, phải phó mặc cho kẻ khác.
Ở xã hội đầy áp bức và ngột ngạt ấy, người phụ nữ không hề được trân trọng hay nâng niu. Thậm chí, vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” chính là ngọn nguồn của mọi tai ương, bi kịch trong cuộc đời họ, hệt như câu thành ngữ “Hồng nhan bạc mệnh”.
Bánh trôi nước không chỉ là lời tố cáo xã hội phong kiến mà còn chứa đựng cả tấm lòng nhân đạo của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Bà ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ, dù trải qua bao phen bão táp vẫn một lòng gìn giữ tấm lòng son sắc, thiện lương.