Như vợ chồng ngâu – Điển tích và sự vận dụng

“Như vợ chồng ngâu” vốn không còn xa lạ đối với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Việt Nam. Nó bắt nguồn từ sự tích Ngưu Lang Chức Nữ, được dùng để chỉ hoàn cảnh vợ chồng bị chia lìa.

Như vợ chồng ngâu
Như vợ chồng ngâu – Điển tích và sự vận dụng

Sự tích về thành ngữ Như vợ chồng ngâu

Thành ngữ “Như vợ chồng ngâu” ra đời dựa trên một sự tích được lưu giữ đến tận ngày nay. Chuyện kể rằng ở khu rừng nọ có một dòng Suối Tiên, là nơi các nàng tiên thường ghé xuống tắm và vui đùa thỏa thích.

Khi tắm, các nàng tiên đều trút lại bộ cánh trên bờ để tiện cho việc xuống nước bơi lội. Ngày nọ, chuyện này bị một anh chàng đốn củi tình cờ bắt gặp và nấp sau bụi cây ngắm nhìn.

Chàng ta đã trộm một bộ cánh và nhanh chóng nấp sau bụi cây quan sát. Khi tắm xong, các nàng tiên đều lấy lại cánh rồi bay trở lại trời, duy chỉ có một người bị mất ngơ ngác nhìn xung quanh.

Bỗng chàng trai đột nhiên bước ra, trên tay là bộ cánh vừa bị lấy mất ban nãy. Dù nàng tiên đã cầu khẩn tha thiết, anh vẫn không chịu trả và yêu cầu nàng theo mình về nhà làm vợ.

Cả hai nhùng nhằng mãi cho đến xế chiều, cuối cùng nàng tiên đành theo chàng trai về nhà. Từ đó, họ sống hạnh phúc bên nhau và hạ sinh được một đứa bé trai kháu khỉnh.

Một hôm, chàng đốn củi có việc phải đi xa, bèn dặn dò vợ ở nhà chớ nên ăn đụn lúa giệ kẻo bị ong vò vẽ đốt. Thế nhưng nàng tiên đã không nghe lời chồng, còn tình cờ tìm thấy bộ cánh năm xưa.

“Sau khi ăn hết đụn lúa vàng, nàng chuyển sang đụn lúa giệ. Không thấy có tổ ong vò vẽ nàng sinh nghi. Tìm tòi một lúc nàng nhận ra bộ cánh của mình chồng giấu trong cót thóc.” – Nàng tiên tình cờ tìm thấy bộ cánh bị giấu năm xưa khiến mình không thể bay về trời

Sau khi tìm được cánh, người vợ rất vui mừng và nóng lòng về thăm cha mẹ. Thế nhưng vì quá thương con tuổi còn nhỏ phải xa mẹ, nàng không bay trở lại trời ngay.

Mãi đến ngày chàng đốn củi sắp trở về, người vợ mới làm thật nhiều bánh, đặt lên tay con chiếc lược và dặn dò gửi lại cho chồng. Sau khi nói xong, nàng khoác lên mình bộ cánh rồi bay về trời.

Đến khi anh chồng trở về và được con trao lại chiếc lược thì vợ đã đi mất. Chàng hiểu ra mọi chuyện mà lòng buồn rười rượi, luôn ngóng trông hình bóng người mình yêu thương.

Một ngày nọ, chàng bế con ra nơi Suối Tiên rồi nấp vào chỗ kín. Đến buổi trưa hôm sau, có bà tiên già từ trên trời cầm lọ xuống dưới hạ giới để lấy nước, người chồng bèn kể lại sự tình và cầu khẩn xin được gặp lại vợ.

“Ba năm trước đây có nàng tiên xuống tắm chốn này, nàng đã làm vợ tôi và sinh hạ với tôi thàng bé này. Nay nàng đột ngột trở về trời để lại niềm thương nhớ cho hai cha con chúng tôi.” – Người chồng thuật lại câu chuyện cho bà tiên và tỏ lòng nhung nhớ người vợ nơi phương trời xa xôi

Sau khi nghe xong, bà tiên bèn đồng ý và tỏ ra rất xúc động trước tình cảm mà chàng dành cho vợ, cũng tức là nàng tiên Ả Chức. Chiều hôm ấy, có hai người từ nhà trời đưa cha con anh đốn củi bay vút lên chín tầng mây.

Đến canh khuya, họ cuối cùng cũng đến nơi và gặp lại bóng dáng ngày đêm nhớ mong. Sau khi hiểu rõ tình cảnh gia đình ba người, Ngọc hoàng bèn thương tình để cha con chàng đốn củi ở lại, giao cho anh chồng chăn trâu.

Về sau, người ta biết đến chàng với cái tên Ngưu, gọi chệch đi là Ngâu. Hàng ngày, anh đều thả trâu ăn cỏ bên này bờ sông Ngân Hà, còn nàng Chức thì dệt vải phía đối diện.

Mỗi năm, Ngọc Hoàng chỉ cho phép họ gặp nhau một lần vào mồng Bảy tháng Bảy âm lịch. Cứ đến ngày này, thời tiết trở nên thất thường, mưa rơi rả rích suốt ngày, còn được gọi là mưa ngâu.

Người đời đồn rằng đó chính là những giọt nước mắt của hai vợ chồng ấy khi gặp lại nhau, rồi phải ly biệt cho đến năm sau. Thành ngữ “Như vợ chồng ngâu” cũng được bắt nguồn từ đây, ám chỉ hoàn cảnh lứa đôi bị chia xa.

Thành ngữ Như vợ chồng ngâu và tác phẩm Chinh phụ ngâm

Chinh phụ ngâm là một áng thơ nổi tiếng thuộc văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Nó được tác giả Đặng Trần Côn chấp bút vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII bằng chữ Hán, tái hiện nỗi cô đơn và buồn tủi của người vợ khi phải xa chồng vì chiến tranh.

Xuyên suốt bài thơ là lời tự sự của kẻ chinh phụ về hoàn cảnh lẻ loi, hiu quạnh. Nàng luôn sống trong nỗi nhớ nhung và lo lắng khôn nguôi cho người chồng nơi biên cương khắc nghiệt.

Chinh phụ ngâm, Đặng Trần Côn còn ví von tâm trạng của người chinh phụ với hình ảnh vũ trụ. Nỗi nhớ nhung ấy cũng dài miên man và vô tận như đường lên trời, nhấn chìm nàng trong hố sâu tuyệt vọng.

“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.” – Chinh phụ ngâm

Hoàn cảnh phu thê xa cách trong tác phẩm cũng giống với ý nghĩa câu thành ngữ “Như vợ chồng ngâu”. Người chinh phụ và chồng chưa tận hưởng cuộc sống hạnh phúc, bình yên bên nhau được bao lâu thì đã bị chia lìa bởi cuộc chiến tranh phi nghĩa.

Thông qua tình cảnh đáng thương của nhân vật trữ tình, tác giả đã lên án tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa giành quyền lực cho các vua chúa. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự cảm thông đối với người phụ nữ, đề cao hạnh phúc lứa đôi.

Tình cảnh vợ chồng bị chia lìa trong Chuyện người con gái Nam Xương

Nguyễn Dữ được biết đến như một danh sĩ tài đức vẹn toàn sống dưới thời Lê sơ và Mạc. Truyền kì mạn lục là tác phẩm duy nhất của ông, gồm hai mươi truyện viết bằng chữ Hán.

Chuyện người con gái Nam Xương là một trong số đó, xoay quanh cuộc đời người phụ nữ Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Nàng không chỉ sở hữu nhan sắc xinh đẹp mà còn hiền thục nết na, công dung ngôn hạnh.

Đến tuổi cập kê, Vũ được gả cho một chàng trai cùng làng tên là Trương Sinh. Tuy nhiên, cuộc sống hạnh phúc sum vầy kéo dài chưa bao lâu thì cả hai phải xa lìa nhau bởi cuộc chiến tranh đánh giặc Chiêm.

Trương Sinh phải đi lính, để lại việc nhà và mẹ già cho Vũ Nương chăm sóc. Trong suốt quãng thời gian chồng chinh chiến nơi sa trường, nàng đã hết lòng vun vén gia đình, một lòng đợi người mình yêu quay về.

Hoàn cảnh chăn đơn gối chiếc ấy của vợ chồng Vũ Nương không khác gì ý nghĩa thành ngữ “Như vợ chồng ngâu”. Dù yêu nhau thắm thiết, họ vẫn không thể nào chống lại chiến tranh.

Đến khi trở về, chỉ vì lời nói ngây ngô từ con trẻ mà Trương Sinh lại nghi ngờ đức hạnh của vợ. Sâu xa hơn, chính khoảng cách do chiến tranh gây ra cùng lòng đa nghi đã khiến anh chàng làm tổn thương người con gái mình yêu.

“Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.” – Chuyện người con gái Nam Xương

Đây chính là yếu tố làm nên giá trị hiện thực cho tác phẩm, tố cáo chiến tranh khiến gia đình ly tán và vợ chồng hiểu lầm. Đồng thời, Nguyễn Dữ cũng gửi gắm vào đứa con tinh thần này sự cảm thông trước số phận đầy rẫy khổ đau mà người phụ nữ thời xưa phải gánh chịu.

Lên đầu trang