Truyền thống thủy chung, nghĩa tình vốn là một nét đẹp trong văn hóa của nhân dân Việt Nam. Có rất nhiều câu tục ngữ và thành ngữ ra đời để ca ngợi điều này, bao gồm cả Như vợ chồng sam.

Ý nghĩa của thành ngữ Như vợ chồng sam
Trong thành ngữ “Như vợ chồng sam”, tác giả dân gian đã so sánh tình cảm vợ chồng với sam. Đây vốn là loài sinh vật sở hữu phần mai rất cứng và sống ở biển, nơi có thủy triều cao.
Điều đặc biệt ở loài sinh vật này là chúng sống theo cặp, con đực bám trên lưng con cái. Mỗi khi đi biển, ngư dân thường đánh bắt đôi, nếu chỉ có một con sam dính lưới, họ sẽ thả về lại.
Dựa vào tập tính này, dân gian đã sáng tạo nên câu thành ngữ “Như vợ chồng sam” hoặc “Dính nhau như sam”, “Thương nhau như sam”. Chúng được dùng để chỉ những đôi vợ chồng chung thủy, luôn yêu thương và kề cạnh bên nhau, không gì có thể chia cắt được họ.
Bên cạnh đó, cách nói đậm chất dân gian ấy còn mang ý nghĩa nhấn mạnh đạo lý thủy chung trong tình yêu, nhắc nhở các thế hệ đời sau phải giữ gìn và tuân theo truyền thống tốt đẹp này.
Câu chuyện dân gian về thành ngữ Như vợ chồng sam
Thành ngữ “Như vợ chồng sam” còn bắt nguồn từ một sự tích lâu đời. Tương truyền rằng ngày xưa ở vùng biển Đông, có hai vợ chồng nghèo làm nghề đánh cá, tuy vậy họ vẫn rất yêu thương nhau,
Một hôm nọ, anh chồng ra khơi thả lưới nhưng lại không may gặp nạn, bị bão lớn nhấn chìm cả thuyền cá. Sau khi tin này truyền về làng, cô vợ đã vô cùng đau đớn, tiếc thương cho người mình yêu.
Không lâu sau, nàng quyết định đi tìm chồng, men theo bờ biển đến một hòn núi lớn. Vì quá mệt, người vợ đã ngủ thiếp đi ở gốc cây ven đường.
Đang chìm trong cơn ngủ say thì cô vợ choàng tỉnh, thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ đứng trước mặt mình. Cụ già đã báo tin người chồng hiện ở ngoài hải đảo xa xôi, còn trao cho nàng viên ngọc để đến gặp.
“Ngươi hãy ngậm ngọc này thì tự nhiên sẽ bay qua biển đến đảo sẽ được gặp chồng. Nhưng nhớ là phải nhắm mắt, ngậm miệng kẻo rơi viên ngọc mà nguy đó.” – Ông lão trao cho người vợ viên ngọc thần và dặn dò kỹ lưỡng
Người vợ bèn nghe theo và nhắm mắt ngậm ngọc bay đi tìm chồng. Đến khi mở mắt, nàng đã gặp lại người mình ngày đêm thương nhớ, cả hai mừng rỡ tính chuyện quay về làng.
Người chồng ôm ngang lưng vợ để bay qua biển cả. Vì quá hạnh phúc, nàng đã quên mất lời dặn dò của ông lão và mở miệng nói chuyện khiến viên ngọc rơi ra, dẫn đến việc cả hai đều bị sa xuống biển rồi hóa thành đôi sam.
“Đôi sam đã trở thành câu vận cho những đôi vợ chồng chung thủy quấn quýt, không thể rời nhau. Cái đức học được là tình chồng vợ cao cả vậy. Từ đặc điểm của đôi sam mà có truyện trên, sau trở thành thành ngữ.” – Tác giả Tiêu Hà Minh bàn về điển tích thành ngữ Như vợ chồng sam
Ngày nay, loài sam lúc nào cũng đi theo cặp và con đực thường ôm lấy con cái, giống như đôi vợ chồng đáng thương trong câu chuyện kia.
Hình ảnh con sam và tình nghĩa vợ chồng trong dân ca Lý con sam
Xuất phát từ câu tục ngữ thân thuộc “Như vợ chồng sam”, loài vật này gắn liền với biểu tượng tình yêu thủy chung của đôi lứa. Trong bài dân ca miền nam Lý con sam, tác giả dân gian đã sử dụng hình ảnh con sam để khắc họa tình cảm mà nàng thiếu nữ dành cho người mình yêu.
Bằng việc lồng ghép vào bài dân ca hình ảnh gắn kết thắm thiết của đôi sam, người con gái đã khéo léo phơi trải nỗi lòng mà mình cất giữ bấy lâu. Nàng mong rằng chàng trai sẽ luôn yêu thương và trân trọng mối lương duyên này.
“Chớ thiếp luôn chiều chồng
Mới nên duyên chồng vợ
Xin chàng chớ quên em
Ấy là duyên nợ con sam…
Ấy là duyên nợ con sam.” – Dân ca Lý con sam
Cho đến tận ngày nay, dân ca Lý con sam vẫn được nhiều người ưa chuộng, thường xuất hiện trong các vở tuồng và cải lương. Làn điệu này không chỉ là món ăn tinh thần mà còn răn dạy mỗi cá nhân đạo lý thủy chung tốt đẹp muôn đời.