Trong cuộc sống mỗi người, tình bạn là thứ không thể thiếu và đáng được trân quý. Không chỉ nhân đôi niềm vui, sẻ chia nỗi buồn, loại tình cảm ấy còn giống như một liều thuốc chữa lành tâm hồn, giúp con người trở nên hạnh phúc và mạnh mẽ hơn.
Robert Southey từng nói, “không có sự cách biệt về không gian hay thời gian nào có thể làm yếu đi tình bạn của những người thực tâm bị thuyết phục bởi giá trị của nhau”. Thông điệp xúc động ấy cũng là ý nghĩa lớn mà Nguyễn Khuyến gửi gắm trong bài thơ Khóc Dương Khuê.
Khóc Dương Khuê được Nguyễn Khuyến viết vào năm 1902 khi Dương Khuê, người bạn tri kỷ qua đời vì bệnh tật. Từng câu chữ trong bài thơ là lời tâm sự, nỗi niềm mà nhà văn gửi gắm trước vong linh bạn.
Đôi nét về cuộc đời nhà thơ Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, có hiệu là Quế Sơn và tự là Mễ Chi. Ông sinh năm 1835 tại Ý Yên, Hà Nam và mất năm 1909 tại Phú Lương, Thái Nguyên.
Đối với văn đàn Việt Nam, Nguyễn Khuyến không còn là cái tên xa lạ khi được người đời truyền tụng là “Tam Nguyên Yên Đổ”. Sở dĩ có tên gọi ấy vì ông đỗ đầu ba kỳ thi Hương, Hội và Đình.
Xuất thân trong một gia đình nhà Nho, sống giữa thời kỳ các phong trào yêu nước bị đàn áp nên khi làm quan triều Nguyễn, Nguyễn Khuyến luôn canh cánh giấc mơ làm sao dân chúng ấm no, xã hội yên bình.
Không tìm được lời giải, ngày một bế tắc nên Nguyễn Khuyến chỉ làm quan hơn mười năm. Ông cáo quan về quê dạy học, sống cuộc đời an nhàn và thanh tịnh, hoà hoà với thiên nhiên đất trời.
“Chín sào tư thổ là nơi ở,
Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà”
– Ngày xuân dạy các con
Dù rời xa chốn quan trường nhưng tên tuổi Nguyễn Khuyến vẫn vang danh, nổi bật là phẩm chất và khí tiết trong những bài thơ. Bên cạnh đó là cốt cách thanh cao, tấm lòng yêu nước và thương dân.
Là một trong những nhà thơ lớn cuối thời kỳ trung đại, Nguyễn Khuyến đã để lại cho văn học Việt Nam hơn tám trăm tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Phải kể đến những tập thơ tiêu biểu như Quế Sơn thi tập, Bách Liêu thi văn tập và Yên Đổ thi tập.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của thời kỳ trung đại. Do vậy không quá khi nói ông là biểu tượng cho phẩm chất và khí tiết của một bậc quân tử chính trực, cốt cách thanh cao cùng tấm lòng yêu nước thương dân, hết lòng vì dân chúng.
Trong kho tàng thơ ca đồ sộ ấy, tác phẩm Khóc Dương Khuê nổi lên với những câu từ da diết và bùi ngùi. Đây là bài thơ viết về Dương Khuê, người bạn thuở thắp đèn ôn thi với Nguyễn Khuyến.
Tiễn biệt cố nhân với bài thơ Khóc Dương Khuê
Dương Khuê tự là Giới Nhu, hiệu Vân Trì, quê ở tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội. Sinh thời ông làm quan triều Nguyễn, đồng thời sáng tác thơ ca để giải tỏa bất mãn với hiện thực.
Là người có học thức uyên bác, cùng chí hướng làm quan nên ngay từ những ngày thi đỗ cử nhân, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã trở thành bạn bè. Thế nhưng, con đường công danh của cả hai lại có sự khác biệt.
Trong khi Nguyễn Khuyến cáo quan về quê sau một thập kỷ thì Dương Khuê vẫn ở lại, tiếp tục sự nghiệp làm quan. Dẫu vậy, cả hai vẫn tình bạn bền chặt và gắn bó, trở thành tri âm tri kỷ của nhau.
Vinh hoa phú quý không thể chia cắt họ nhưng đối diện với sinh lão bệnh tử, Dương Khuê và Nguyễn Khuyến chỉ biết ngậm ngùi tiếc thương. Năm 1902, khi nhận tin dữ Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc Dương Khuê thay cho lời viếng thăm.
Trước đó, Nguyễn Khuyến đã sáng tác ba bài thơ chữ Hán về Dương Khuê. Khóc Dương Khuê là tác phẩm thứ tư, tên gốc là Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương Thượng thư.
Tác phẩm được viết theo thể song thất lục bát, làm bật lên cảm xúc của nhân vật trữ tình lẫn nét tài hoa của nhà thơ. Đặc biệt trong hoàn cảnh tiễn đưa cố nhân, Nguyễn Khuyến đã dùng lời lẽ thi vị mà chân thật để khóc thương Dương Khuê.
Khóc Dương Khuê hơn cả bài thơ về tình bạn
Tình bạn chân chính sẽ không bao giờ xa cách, có thể cách về địa lý nhưng sẽ không xa ở trong tim. Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cũng vậy, nhà thơ đã bộc bạch nỗi lòng một cách chân thực, sâu sắc nhất để gửi đến người bạn phương xa.
Bài thơ gồm 38 câu, là nỗi niềm thương nhớ, xót xa khi nghe tin người bạn tri kỷ của mình mất. Thi phẩm cho độc giả chứng kiến một tình bạn cao đẹp, thủy chung, gắn bó và chân thành.
Nỗi đau đớn khi nghe tin bạn mất
Mở đầu bài thơ là tâm trạng bàng hoàng, thể hiện sự buồn thương của Nguyễn Khuyến khi hay tin người bằng hữu qua đời vì bệnh:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Một sự thảng thốt đầy xót xa được nhà thơ gắng gượng cất lên, tưởng chừng như vừa đánh rơi thứ gì vô cùng quý giá. Bởi vậy, nhà thơ đã dành trọn sự trân trọng, nuối tiếc của mình để gửi gắm trong phút giây cất lời.
Dùng cách gọi “bác Dương” vừa thể hiện sự trang nghiêm, mẫu mực lại gợi được tình cảm thân mật, gắn bó giữa hai người. Tuy lớn tuổi hơn Dương Khuê nhưng Nguyễn Khuyến luôn dành cho người bạn ấy sự kính trọng, in đậm trong đặc trưng ứng xử cao đẹp.
Để giảm nhẹ nỗi đau buồn và cũng để tự an ủi, động viên chính bản thân, nhà thơ sử dụng từ “thôi”. Cách nói giảm, nói tránh tinh tế này ngầm chỉ về cái chết của Dương Khuê.
Hai từ “nước mây” chỉ hai sự vật có khoảng cách xa nhau, nước chảy mây trôi, mỗi cái một phương không biết bao giờ có ngày gặp lại. Tuy nhiên, dù có chảy trôi về chốn nào thì trong lòng nước luôn hiện hữu bóng hình mây.
Vì vậy, khi hình ảnh “nước mây” được sử dụng nối với hai từ láy liên tiếp “man mác” và “ngậm ngùi” đã khắc họa bầu trời xót thương, sự nuối tiếc trong một không gian xa cách nghìn trùng, âm dương cách trở.
Hai câu thơ đầu như tiếng nấc nghẹn đắng, đầy đau đớn, tiếc thương của Nguyễn Khuyến. Qua đó thể hiện sự trân trọng, tình cảm chân thành của đôi bạn có tài, có lòng với nước với dân.
Tình bạn sống lại qua hồi tưởng của Nguyễn Khuyến
Trong nỗi buồn thương vô tận đó, Nguyễn Khuyến dần chìm sâu trong dòng suy tưởng về những kỉ niệm xưa kia, đó là hồi ức thuở tráng niên của ông cùng Dương Khuê:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Đây là khoảng thời gian Nguyễn Khuyến và Dương Khuê gặp nhau, cả hai cùng chung khoa thi, một sở nguyện để rồi họ cùng nhau đỗ đạt, làm quan. Gặp được một người bạn đồng niên, giống chí hướng như vậy là vinh hạnh mà ông vô cùng quý mến.
Các từ ngữ “sớm hôm”, “cùng nhau”, “từ trước đến sau” diễn tả mối quan hệ vô cùng thân thiết, hòa hợp, chung thủy của đôi bạn này. Nguyễn Khuyến vô cùng trân trọng cuộc hội ngộ ấy nên đã ví với “duyên trời” sắp đặt.
Dường như đó là món quà nhà thơ rất trân trọng, thầm cảm ơn vì ông trời đã ban tặng thứ quý giá ấy cho cuộc đời mình. Một tình bạn đẹp, chân thành, gắn bó, thấu hiểu lẫn nhau là thứ Nguyễn Khuyến may mắn có được trong thời loạn lạc.
Mỗi kỷ niệm như một mảnh ghép trong tâm hồn nhà thơ, tựa thước phim quay chậm với biết bao giọt lệ. Phải là người bạn tâm đầu ý hợp mới tạo ra những khoảnh khắc cầm ca, thi sửu đẹp và đáng nhớ đến vậy.
Nhịp sống của “Tam Nguyên Yên Đổ” trở nên sôi nổi, biết những thú vui khuây khỏa khi có Dương Khuê bầu bạn:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Đó là những thú vui tao nhã của hai bậc thi nhân, có khi du ngoạn nơi “dặm khách”, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng nhân gian yên bình và thanh tĩnh, lúc lại đứng giữa thiên nhiên nghe “tiếng suối róc rách”, hay từ thanh lâu mà nghe “con hát lựa chiều cầm xoang”.
“Từng gác cheo leo” chỉ vị trí trên lầu cao, “cầm xoang” nghĩa là cung đàn, giọng hát. Đứng trên lầu cao vừa ngắm nhìn được cảnh vật xung quanh, vừa thưởng thức được tiếng đàn, tiếng hát hòa quyện, từng đó đủ để thấy Nguyễn Khuyến và Dương Khuê rất sành thưởng thức nghệ thuật.
Trong tác phẩm Xuân Nhật Tây Hồ Ký Tạ Pháp, Âu Dương Tu có viết:
Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu
Thoại bất đầu cơ bán cú đa.
Dịch nghĩa:
Uống rượu mà gặp bạn hiểu mình thì ngàn chén cũng còn ít
Nói chuyện mà không hợp nhau thì nửa câu cũng đã nhiều
Đây là hai câu thơ thường được các đấng nam nhi xưa ngân nga trên bàn rượu, đặc biệt mỗi khi gặp bạn hiền. Từ đó chén qua chén lại cho tới say. Nguyễn Khuyến cũng nhớ lại những lần cùng bạn thưởng rượu, ngâm thơ:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Cùng bạn uống rượu nhưng nhà thơ lại sử dụng từ “nhấp”, không những vậy còn là “cùng nhấp”, ý chỉ việc uống từng hớp nhỏ như vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm và thưởng thức cái ngon của rượu. Nhà thơ đã có lần nói về tửu lượng của mình trong bài thơ Thu ẩm:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Tuy chỉ uống có chút rượu nhưng nhà thơ lại cảm nhận được “ăm ắp bầu xuân”. “Bầu xuân” cũng là bầu rượu, là bầu thơ. Bầu rượu càng đầy thì bầu thơ càng thêm lai láng, thi vị.
Sử dụng cách diễn đạt “cũng có lúc” và “có khi” đan xen lẫn nhau giữa các dòng thơ giúp gợi nhớ từng kỷ niệm. Đồng thời, tạo âm hưởng kéo dài như không dứt, nó thiết tha và sâu sắc.
Tất cả những kỷ niệm ấy in sâu trong lòng Nguyễn Khuyến, dù chỉ là những thú vui, hạnh phúc đời thường nhưng mang nhiều ý nghĩa, xúc cảm dành cho chính nhà thơ.
Tình bạn của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê không chỉ bền chặt, khăng khít trong thời bình mà càng thêm sâu nặng nghĩa tình hơn trong thời buổi loạn lạc:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
“Buổi dương cửu” nói về thời kỳ rối ren khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Vậy nên, Nguyễn Khuyến coi đó như một vận hạn mà con người buộc phải trải qua trong kiếp sống này.
Đứng trước hoàn cảnh dân chúng chịu cảnh đói khổ lầm than, triều đình dần mục nát. Đương là kẻ sĩ, là nhà nho “cùng nhau hoạn nạn” nhưng cách lựa chọn của mỗi người lại khác nhau.
Dẫu có sự khác biệt trong suy nghĩ, lối sống nhưng “Tam Nguyên Yên Đổ” luôn thấu hiểu người bạn của mình, điều đó được thể hiện qua những vần thơ nhà thơ dành tặng Dương Khuê trong Gửi thăm quan Thượng thư họ Dương:
Tôi biết bác vì cha mẹ phải làm quan để lấy tấm lụa
Bác biết tôi nghèo phải làm quan để kiếm đấu gạo lương
Ông cảm thấy bản thân đã già, trở nên bất lực trước hoàn cảnh hiện tại. Bằng cách điệp ba từ “thôi” liên tiếp trong cùng một câu thơ. Điều này giống như tiếng thở dài đầy ngao ngán, đồng thời tự an ủi chính mình, muốn quên đi những phiền muộn không muốn nhắc đến.
Đó cũng là tâm sự mà nhà thơ luôn canh cánh trong lòng, ông không thể giúp dân chúng no ấm, đất nước thái bình. Dù đau buồn trước cảnh nước mất nhà tan nhưng Nguyễn Khuyến không thể làm được gì.
Thời gian chảy trôi, đồng nghĩa với việc hai người ngày càng già đi. Nhắc lại những kỷ niệm xưa, ngẫm nghĩ về tình bạn đẹp ấy, Nguyễn Khuyến chưa bao giờ hình dung sự mất mát lúc này:
Muốn đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần,
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Nhà thơ nhớ lại lần gặp Dương Khuê cách đây ba năm trước, cũng bởi “nhác”, ngại đi đường xa cộng với tuổi cao. Giờ đây, ông ngàn lần không dám tin đó lại là lần hội ngộ cuối cùng của hai người.
Chính vì “ba năm gặp bác một lần” nên khi gặp lại, Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê sự quan tâm vô cùng chân thành. Ông “cầm tay” rồi “hỏi hết xa gần”, vui mừng và an tâm khi thấy bạn mình “tinh thần chưa can”, vẫn còn khỏe mạnh để lo chuyện quan trường, có sức khỏe để tiếp tục bầu bạn.
Kết thúc hồi tưởng và đối mặt với hiện thực phũ phàng
Trái ngược lại với sự an tâm ở trên, tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc này như lặng đi, trùng xuống giữa những cảm xúc lẫn lộn và mơ hồ:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Đối mặt trước tin dữ, Nguyễn Khuyến vẫn không thể chấp nhận hiện thực phũ phàng ấy. Vốn cho rằng Dương Khuê ít tuổi hơn ông, còn không mang nhiều bệnh tật như mình, vậy mà số phận lại trớ trêu với người bạn ông thương.
Hình ảnh “chân tay rụng rời” diễn tả sự bàng hoàng, thảng thốt cho một nỗi đau ai oán, không thể cất lên thành lời. Đó cũng chính là nỗi băn khoăn mà nhà thơ luôn trằn trọc suy nghĩ, một kết thúc quá đỗi vô tình dành cho ông.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn, giọng thơ tự tình đầy nghẹn ngào, trong từng câu chữ thấm đẫm những giọt lệ nóng. Tiếng gọi “tôi”, “bác” xuất hiện dày đặc tựa như hai linh hồn đang hòa quyện, thấu hiểu, nương tựa nhau khiến niềm đau ấy nhân lên gấp bội.
Đối mặt với sự thật, Nguyễn Khuyến đành chấp nhận nỗi đau mất bạn nhưng vẫn luôn cho rằng điều đó thật sự phi lý. Lời thơ cất lên vừa chua xót, vừa trách than số trời đã định:
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Sao vội vàng đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Dẫu biết quy luật của cuộc sống con người, không ai có thể thoát khỏi vòng xoáy sinh lão bệnh tử nhưng cái chết đột ngột của Dương Khuê khiến nhà thơ cảm thấy thật vô lý.
Sự ra đi ấy đã lấy đi của ông một người bạn hiền thấu hiểu cũng như niềm vui trong suốt năm tháng tuổi già. Vậy nên trước những thú vui tao nhã khi xưa, Nguyễn Khuyến chẳng còn hứng thú, chỉ thấy vô vị và nhạt nhòa.
Sau chữ “chẳng” xuất hiện năm lần là chữ “không” diễn tả sự trống vắng, cô đơn, sự buồn bã của nhà thơ. Người ra đi và kẻ ở lại cùng chung nỗi niềm tâm sự, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ thái độ chán nản của mình trước thời cuộc trong bài thơ Tiến sĩ giấy:
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!
Không còn người bầu bạn, trò chuyện nên cuộc đời nhà thơ như mất hết ý nghĩa. Ông không muốn uống rượu, cũng chẳng thiết ngâm thơ, bởi:
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa”
Giường kia treo cũng hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Sử dụng điển tích, điển cố “giường”, “đàn” qua đó khéo léo nói về tình bạn của mình giống với tình bạn của Trần Phồn – Từ Trĩ, Tử Kỳ – Bá Nha trong sử sách xưa. Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để ai ngồi vào, chỉ dành riêng để tiếp bạn. Còn Bá Nha sau khi Tử Kỳ chết liền bỏ chơi đàn vì thấy không ai hiểu được tâm ý.
Nguyễn Khuyến cũng cảm nhận được sự mất mát giống vậy, chiếc giường dành riêng đón bạn nay trở nên “hững hờ”, tiếng đàn “ngẩn ngơ” vì không còn bóng dáng người xưa. Nỗi buồn ấy thẫm đẫm từ người đến vật, như Nguyễn Du từng miêu tả trong Truyện Kiều:
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Qua đó diễn tả nỗi buồn day dứt khôn nguôi, thể hiện tình nghĩa sâu nặng, thắm thiết của nhà thơ với người tri kỷ đã khuất. Chấm dứt dòng hồi tưởng ấy, Nguyễn Khuyến trở lại hiện thực, đưa tiễn bạn bằng tấm lòng chân thành, tình bằng hữu tri kỷ:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Trong văn chương từng có nhiều từ ngữ diễn tả nước mắt, nếu Nguyễn Du sử dụng “giọt lệ”, “lệ hoa”, Nguyễn Trãi gọi “hai hàng lụy nhỏ” thì Nguyễn Khuyến lại viết “hạt lệ như sương”.
Sỡ dĩ có sự khác biệt ấy là do nước mắt của tuổi trẻ thì đầm đìa, chứa chan. Điển hình là Thúy Kiều trong Truyện Kiều:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!
Còn khi về già, nước mắt không còn nhiều nữa nên Nguyễn Khuyến đã khóc thương cho bạn của mình với “hạt lệ như sương”. Điều đó cũng cho thấy họ đã trải qua nhiều gian truân trong cuộc đời, học được cách đối diện và chấp nhận sự thật.
Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ “hạt lệ” với phép so sánh “như sương” khiến giọt nước mắt vốn đỗi bình thường lại được nâng lên thành hình tượng nghệ thuật. Không chỉ thể hiện tâm trạng mà trong sâu thẳm, tình bạn còn hiện lên với nét trong sáng và thuỷ chung sâu nặng, tạo được vẻ đẹp lấp lánh cho bài thơ.
Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong Khóc Dương Khuê
Về nghệ thuật, Khóc Dương Khuê được viết theo thể thơ song thất lục bát giàu âm điệu, ngôn ngữ bình dị, thân tình, đậm chất suy tưởng, trầm ngâm. Cùng với đó là nhiều điển tích điển cố sâu sắc, thể hiện được tài thơ tinh tế, uyên bác của Nguyễn Khuyến.
Chính những nét nghệ thuật tưởng chừng đơn sơ, mộc mạc nhưng đã mang lại một giá trị diễn đạt vô cùng sâu sắc. Bài thơ đã diễn tả một cách tinh tế, khắc họa tình bạn cao đẹp, đáng ngưỡng mộ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.
Bài thơ Khóc Dương Khuê mang màu sắc đượm buồn, đầy nuối tiếc. Đó là những nỗi niềm xót thương vô tận, hồi tưởng đẹp đẽ, đầy kỷ niệm một thời của thi sĩ tài năng với người bạn tri kỷ đã khuất.
Bài thơ còn nổi lên tình cảm thiêng liêng, cao cả, đáng trân trọng. Qua đó khẳng định tình cảm son sắt, gắn bó keo sơn cũng như tấm lòng cao đẹp của Nguyễn Khuyến dành cho người Dương Khuê.
Dù văn học Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, có sự phát triển nhất định nhưng Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến vẫn là áng thơ về tình bạn chân thành, cao đẹp mà chưa tác phẩm nào thay thế được.
Phương Anh
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất