Chiến tranh và người lính là hai hình ảnh quen thuộc trên diễn đàn thơ ca Việt Nam những năm kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Đề tài đó luôn được khắc họa bằng ngôn từ hào hùng, gợi lên bức tranh cách mạng gian khổ nhưng cũng đầy dũng cảm, kiên cường.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.” – Tố Hữu
Tuy nhiên, ẩn sau những chiến thắng vang dội là sự đánh đổi của biết bao mồ hôi, nước mắt và cả tính mạng con người, thậm chí hy sinh tình cảm cá nhân, gác lại nỗi trăn trở về gia đình để lên đường đi đánh giặc.
Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng và được ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Truyện khắc họa khéo léo tình cảm cha con sâu nặng giữa ông Sáu, bé Thu qua tình huống éo le mà tác giả đã xây dựng.
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của người dân Nam Bộ
Nguyễn Quang Sáng là người con được sinh ra ở miền đất An Giang, Nam Bộ. Ông tham gia bộ đội và bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn chương của mình trong những năm kháng chiến chống Pháp.
“Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng…Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá.” – Trần Đăng Khoa
Với kinh nghiệm nhiều năm tham gia kháng chiến nơi “mưa bom bão đạn”, các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thường khắc họa hai mảng đề tài chính là chiến tranh và cuộc sống con người vùng Nam Bộ.
“Nguyễn Quang Sáng là nhà văn của cái đẹp, nhà văn đã ca ngợi vẻ đẹp của con người thông qua niềm tin, thông qua sự hiểu biết, những suy nghĩ về con người miền Nam quật cường, anh dũng.”
Nhà văn sáng tác trên nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim nhưng thành công nhất trong sự nghiệp văn chương của ông là truyện ngắn với tác phẩm được biết đến rộng rãi Chiếc lược ngà.
Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Quang Sáng được biết đến với văn phong đậm đà chất Nam Bộ, giản dị mà tự nhiên, sâu sắc. Đặc biệt là khi viết truyện ngắn, tác giả thể hiện rõ nét tài năng xây dựng tình huống truyện éo le, bất ngờ.
Đặc trưng thể loại truyện ngắn và tác phẩm Chiếc lược ngà
Truyện ngắn là loại hình tự sự cỡ nhỏ mà nội dung thường chỉ xoay quanh một tình huống chủ chốt, một “khúc của đời sống” để phản ánh mọi mặt về cuộc sống, con người trong thời đại nó ra đời.
“Mỗi truyện ngắn là một lát cắt của thân cây cổ thụ, chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoảng gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc.” – Nguyễn Minh Châu
“Lõi phải dày, vỏ phải mỏng”, cô đúc ở số lượng câu chữ nhưng những giá trị phản ánh trong nội dung lại có sức chấn động phi thường là đặc trưng căn bản của thể loại truyện ngắn.
“Vẽ một con báo qua màng lông mà vẫn biết là con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh thần.” – Lỗ Tấn từng nhận xét về đặc trưng của truyện ngắn
So với tiểu thuyết, thể loại văn chương chứa đựng bức tranh rộng lớn của một thời đại lịch sử “trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn” thì truyện ngắn hội tụ nhiều khoảnh khắc nhỏ, tồn tại như “mặt xén ngang của cuộc sống”.
“Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng.” – Paul Bourget
Với dung lượng ít, truyện ngắn thường “hướng tới việc phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống con người”, tìm hiểu những khoảnh khắc cô đọng nhất để rồi từ đó người đọc nhìn thấu cả giá trị của cả một thời.
Khi khám phá truyện ngắn, một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức sống tác phẩm thuộc thể loại này là tình huống, hạt nhân kết cấu của truyện.
Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong kết cấu truyện mà ở đó, “cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất”, thậm chí “chứa đựng cả một đời người, cả một đời nhân loại”.
Qua những tình huống được xây dựng trong kết cấu truyện, độc giả có thể thấy rõ “cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất” bên trong con người nhân vật khi họ bị đẩy vào một hoàn cảnh ngặt nghèo.
“Truyện ngắn điểm huyệt hiện thực bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che dấu trong muôn mặt cuộc sống hằng ngày.” – Bùi Việt Thắng
Chiếc lược ngà là một tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, nó đã bộc lộ sâu sắc tình phụ tử giữa ông Sáu và bé Thu, thứ tình cảm thiêng liêng mà không một thế lực nào có thể ngăn cản, thậm chí cả chiến tranh.
Theo chân Chiếc lược ngà, độc giả đến với gia đình ông Sáu ở miền Đông Nam Bộ những năm đầu 60 thế kỉ XX, khi cuộc chiến “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” đang bùng nổ.
Ông lúc ấy phải “thoát ly đi kháng chiến đầu năm 1946, sau khi tỉnh nhà bị chiếm” và đứa con duy nhất cũng chưa đầy một tuổi, bản thân chỉ có thể nhìn mặt con mình qua tấm ảnh nhỏ.
Sau bao ngày mong nhớ, ông Sáu được về nhà, khát khao gặp lại con gái nhưng cay đắng thay khi bé Thu không nhận ra ba của mình. Đó là tình huống truyện được nhà văn Nguyễn Quang Sáng xây dựng trong tác phẩm.
Tình phụ tử là bức tranh đẹp nhất hiện lên trong Chiếc lược ngà
Tình phụ tử là thứ tình cảm thiêng liêng, sâu sắc tồn tại giữa ba và con. Không một thế lực nào trên trái đất có thể chia cắt đi sợi dây gắn bó diệu kỳ đó, ngay cả chiến tranh, “kẻ hủy diệt mọi thứ”.
Chiến tranh có thể phá hoại vật chất, ăn mòn tinh thần con người nhưng tuyệt nhiên không thể cắt đứt sợi dây liên kết giữa cả hai. Chiếc lược ngà đã chứng minh cho độc giả sức sống mãnh liệt của thứ tình cảm thiêng liêng ấy.
Tình cảm cha con trên phông nền hiện thực chiến tranh
Chiếc lược ngà được viết trong khoảng những năm sáu mươi của thế kỉ XX, khi nhân dân ra sức “giải phóng miền Nam”. Chiến tranh vì vậy xuất hiện như một chìa khóa then chốt, giải mã toàn bộ khúc mắc được tác giả tạo dựng.
Hiện thực khốc liệt được nhà văn Nguyễn Quang Sáng thể hiện trực tiếp qua lời văn miêu tả cuộc sống sinh hoạt thường ngày lẫn nơi chiến khu đánh giặc của ông Sáu và gia đình.
“Suốt mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh mấy lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến. Nhưng cái cảnh đi thăm chồng ở chiến trường miền Đông không đơn giản. Chị không dám đưa con qua rừng….
…Về công việc và đời sống ở trong rừng, tôi có thể kể cho đến sáng, có đêm bị biệt kích vây bắt đến ba lần, có ngày không gạo ăn, ăn toàn là bắp…”
Nhiều độc giả có thể bắt gặp hình ảnh chiến tranh đang ẩn mình trong từng ngóc ngách tác phẩm. Sự hiện diện của nó như bóng tối bao trùm toàn bộ nhưng vẫn le lói thứ ánh sáng kì diệu từ tình cảm đồng đội, gia đình.
Hơn thế, chiến tranh tàn khốc còn được khắc họa gián tiếp qua hình ảnh vết thẹo. Nó xuất hiện như một kí hiệu cho lòng can đảm của người lính nhưng cũng là nguyên nhân khiến con gái không nhận ra ba mình.
Chỉ là một vết thẹo bên má phải nhưng đằng sau đó là cả một hiện thực khốc liệt đầy khói bụi, sự hy sinh không biết nuối tiếc của tấm gương yêu nước nồng nàn.
Vết thẹo ấy có thể khiến ông Sáu không thể cảm nhận trọn vẹn tình cảm bé Thu dành cho mình nhưng nó lại là minh chứng sống động cho tấm lòng quả cảm “đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương”.
Ông Sáu là người cha giàu lòng yêu thương con
Mở đầu tác phẩm, với lời kể ngôi thứ ba của nhân vật tôi, hình ảnh ông Sáu hiện lên trước mắt độc giả với khát khao được gặp cô con gái bé bỏng, vốn từ lâu chỉ thấy qua tấm ảnh nhỏ.
“Suốt mấy năm kháng chiến, chị Sáu có đến thăm anh mấy lần. Lần nào anh cũng bảo chị đưa con đến.”
Khát khao gặp con tuy mãnh liệt nhưng lại không thể thực hiện bởi bom đạn chiến tranh. Ông xa con tám năm, “chỉ được ngắm con qua tấm ảnh nhỏ” nên khi được về thăm nhà mấy ngày, “cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh”.
Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà của ông Sáu
Lúc về đến nhà, “không thể chờ xuồng cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Ông Sáu không thể kìm lại sự nôn nóng đang rạo rực bên trong mình khi chỉ mới nhìn thấy con.
Tình yêu thương của ông Sáu dành cho bé Thu là không thể đong đếm. Xa cách tám năm nên lúc gặp mặt con, ông không thể chờ đợi thêm phút giây nào mà “bước vội vàng với những bước dài”.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa hình ảnh một người cha yêu thương con thật bản năng, vồ vập. Tiếng kêu “Thu! Con” cất lên từ giọng nói chứa đầy sự hồi hộp, kìm nén mà ngay bản thân ông Sáu cũng khó phát hiện.
Ông Sáu gặp con, mong muốn “con sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt lấy cổ anh”. Vì nghĩ vậy, muốn vậy nên ông “vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con”.
Tuy nhiên, đáp lại những phấn khích và rạo rực của “cái tình cha” bên trong ông Sáu thì bé Thu “giật mình, tròn mắt nhìn” rồi “nó ngơ ngác, lạ lùng” trước người đàn ông xa lạ với vết thẹo trước mặt.
Còn ông Sáu thì không ghìm nổi xúc động, người đàn ông ấy chầm chậm bước về phía trước. Bản thân là một chiến sĩ can trường nhưng giờ đây lại “giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con!”.
“Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con. Nghe gọi, con bé giật mình, trong mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh, anh không ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo dài bên má phải lại đỏ ửng lên, giần giật, trông rất dễ sợ.”
Tiếng kêu “Ba đây con!” mà ông Sáu lặp lại hai lần đã thể hiện rõ sự vỡ òa cảm xúc trong lần đầu tiên được gặp bé Thu và gọi một tiếng “con” trực tiếp. Trái ngược với ông Sáu, bé Thu lại tỏ rõ sự ngạc nhiên.
“Con bé thấy lạ quá, nó chớp mắt nhìn tôi như muốn hỏi đó là ai, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má!.”
Ông Sáu bất ngờ trước thái độ sợ hãi của con gái, cú sốc lớn này đã làm trái tim của người ba bị tổn thương và rỉ máu. Ông chuyển từ xúc động sang đau đớn, cuối cùng chỉ còn lại thất vọng.
“Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông thõng như bị gãy.”
Từ xa cách tới xa lạ là một khoảng cách rất gần, ông mong muốn con gái sẽ sà vào lòng mình, ôm lấy mình và gọi một tiếng ba. Tuy nhiên, tất cả những khát khao ấy đã chìm vào khoảng không, chỉ còn lại sự im lặng.
Trong ba ngày ngắn ngủi được về thăm nhà, ông Sáu luôn cố gắng làm mọi việc để gắn kết tình cảm cha con, bản thân thì “suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”.
Tuy nhiên, ông Sáu càng cố gắng bao nhiêu thì khoảng cách giữa ông và bé Thu lại càng xa cách bấy nhiêu. Chỉ một tiếng gọi “ba” cũng thật khó khăn với người chiến sĩ ấy, mâu thuẫn câu chuyện vì thế cứ tăng dần.
Lúc bé Thu gọi ông Sáu vào ăn cơm với giọng điệu của một người xa lạ “Vô ăn cơm!”, ông vẫn “ngồi im, giả vờ không nghe” mà chờ được nghe câu nói “Ba vô ăn cơm” như một hy vọng.
Tới khi ăn cơm, tuy biết bé Thu xem mình là “người ta” nhưng ông Sáu vẫn không kìm lòng mà quan tâm, “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”. Tình cảm người cha ấy dành cho con gái diễn ra trong âm thầm và lặng lẽ.
Đặc biệt, ở những phút giây chia tay cuối cùng, tuy người cha xa cách tám năm “muốn ôm con, hôn con” nhưng lo nghĩ bé Thu sẽ ái ngại, “nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên ông Sáu đã không thực hiện mong ước của mình.
Cái khát khao được gần gũi với con là mong ước mãnh liệt nhất của ông Sáu trong ba ngày về thăm nhà. Vậy mà khi chia tay, ông vẫn kìm lòng, vẫn suy nghĩ đến cảm xúc bé Thu mà “chỉ đừng nhìn nó”.
“Chắc anh cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng hình như cũng lại sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu.”
Tưởng chừng ông Sáu không thể nhận được sự đáp lại của con gái trong những ngày về thăm nhà ngắn ngủi nhưng may mắn thay, tình cha con bỗng nhiên trở lại vào đúng thời khắc ngắn ngủi mà nghẹn ngào nhất.
Bé Thu cuối cùng cũng gọi ông Sáu là “ba”, chạy đến “hôn ba nó cùng khắp”. Trong lúc đó, ông cũng không kìm được xúc động mà khóc, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”.
Một người lính không sợ hãi trước bom đạn kẻ thù, chưa từng rơi lệ trước cảnh đổ lửa của chiến tranh mà khi đứng trước gia đình, trước đứa con gái bé bỏng, ông vẫn không ngăn được phút giây yếu đuối của bản thân mình.
Đó không chỉ là giọt nước mắt chia ly mà còn là sự giải tỏa cho nỗi nhớ mong bị kìm nén suốt tám năm ròng rã, bị phong tỏa khi bản thân đang trong cuộc chiến tranh đẫm máu tại miền Nam.
Niềm yêu quý và thương nhớ con trong những ngày trở lại căn cứ
Sau khi chia tay gia đình trở về căn cứ, ông Sáu nhớ con khôn nguôi. Người cha ấy cứ mãi day dứt và ám ảnh việc “sao mình lại đánh con” trong lúc nóng giận khi thấy nó hất cái trứng cá, “cơm văng tung tóe cả mâm”.
“Những đêm rừng, nằm trên võng, mắt chỉ thấy ấm ni lông nóc, lúc nhớ con anh cứ ân hận sao mình lại đánh con. Nỗi khổ tâm đó cứ giày vò anh.”
Ông Sáu luôn nhớ kỹ lời dặn của bé Thu trong lúc mếu máo chia tay ba “Ba về! Ba mua cho con cây lược nghe ba!”. Tình cảm yêu quý và thương nhớ con đã thúc đẩy ông tìm khúc ngà voi để làm chiếc lược tặng con gái.
Khi ông Sáu tìm được khúc ngà thì tâm trạng như thể vỡ òa, “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.
Nụ cười hớn hở như một đứa trẻ xuất hiện trên khuôn mặt chai sạn vì bom lửa chiến tranh của người chiến sĩ đã khắc họa rõ nét về tình yêu thương con vô bờ bến của ông Sáu.
Người lính ấy đã dồn tâm trí vào việc làm chiếc lược ngà cho con gái khi tự mình “lấy vỏ đạn hai mươi li của Mỹ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành từng miếng nhỏ”.
Ông Sáu làm chiếc lược cho bé Thu với thái độ “cẩn trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc… Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà ông gò lưng, tẩm mần khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Sự chăm chút của ông Sáu trong lúc làm lược và dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” là những hành động ẩn chứa bao trìu mến, yêu thương từ người ba dành tặng cô con gái bé bỏng nơi xa.
Làm chiếc lược ngà là điều duy nhất ông có thể làm cho con gái, nó đã trở thành vật quý giá để mỗi khi nhớ con, “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi cài lên mái tóc cho cây lược thêm bóng”, nỗi nhớ nhung cũng được xoa dịu phần nào.
Bé Thu và tình yêu thương ba sâu nặng trong Chiếc lược ngà
Nếu ông Sáu chỉ có thể nhìn bé Thu lớn lên từng ngày qua tấm ảnh nhỏ thì trong những tháng ngày thơ ấu của Thu, em cũng mới được ngắm người ba đi bộ đội của mình qua “cái hình ba chụp với má”.
Ở đầu tác phẩm, độc giả thấy một cô bé Thu thật cá tính khi em nhất định không chịu gọi ông Sáu là ba, thậm chí nhìn người đàn ông ấy với cặp mắt “ngơ ngác, lạ lùng”, đầy cảnh giác.
Mặc cho người thân khuyên nhủ hay bị buộc vào tình thế nguy cấp “chắt nước nồi cơm” nhưng Thu vẫn không chịu gọi ông Sáu bằng một tiếng ba mà em chỉ “nói trổng” như một người xa lạ.
“Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó bảo lại:
– Thì má cứ kêu đi.
Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
– Vô ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra:
– Cơm chín rồi!
Anh không quay lại. Con bé bực quá, quay lại bảo mẹ:
– Con kêu rồi mà người ta không nghe.”
Rồi đến khi bé Thu rơi vào tình thế bắt buộc phải gọi ông Sáu là ba, nếu không má về “thế nào cũng bị đòn”. Vậy mà Thu vẫn cố chấp không gọi, tự xử lý mọi việc chứ nhất quyết không chịu xưng hô ba – con với ông.
“Nghe nồi cơm sôi, nó giở nắp, lấy đũa bếp sơ qua – nồi cơm hơi to, nhắm không thể nhấc xuống để chắt nước được, đến lúc đó nó mới nhìn lên anh Sáu. Tôi nghĩ thầm, con bé đang bị dồn vào thế bí, chắc nó phải gọi ba thôi. Nó nhìn dáo dác một lúc rồi kêu lên:
– Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái! – Nó cũng lại nói trổng.
…
Lúc đó nồi cơm sôi lên sùng sục. Nó hơi sợ, nó nhìn xuống, vẻ mặt nghĩ ngợi, nhấc không nổi, nó lại nhìn lên…. Thấy nó luýnh quýnh tôi vừa tội nghiệp vừa buồn cười, nghĩ chắc thế nào nó cũng chịu thua. Nó loay hoay rồi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước, miệng lẩm bẩm điều gì không rõ. Con bé đáo để thật.”
Đỉnh điểm là lúc bé Thu bị ông Sáu “vung tay đánh vào mông nó và hét lên: Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?” khi Thu hất miếng trứng cá ông gắp vào bát chén nó, làm “cơm văng tung tóe cả mâm”.
Ai cũng nghĩ rằng “con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm hoặc chạy vụt đi” nhưng nó chỉ ngồi im, “gắp cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” và sang “mét với bà ngoại”.
Thật kì lạ, khi đến lúc chia tay ông Sáu trở về căn cứ bộ đội, bé Thu lại “có gì đó hơi khác”. Cô bé im lặng, đứng một góc trong nhà “như bị bỏ rơi” với đôi mắt xôn xao mà trong trẻo.
“Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa.”
Mọi người, kể cả ông Sáu đều nghĩ rằng “con bé sẽ đứng yên đó thôi” nhưng tình cha con trong thời khắc biệt ly lại trỗi dậy, làm dậy sóng tâm can của nhân vật trong tác phẩm cũng như những độc giả.
Bé Thu “bỗng kêu thét lên: Ba… a… a… ba!”, tiếng kêu ấy như vết nứt lòng, “xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người”. Nó được thốt lên từ bao năm kìm nén, “vỡ tung từ đáy lòng” của một đứa trẻ chưa bao giờ gặp ba ngoài đời.
“Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.”
Sự gấp gáp trong cách thể hiện tình cảm qua hành động “vừa kêu vừa chạy xô tới” và cái ôm chặt lấy cổ ba đã bộc lộ tình yêu thương cha sâu nặng của một cô bé tám tuổi.
Giây phút chia ly như được kéo giãn thật dài trong những cái nhìn mờ nhòe giọt lệ. Đó là sự nức nở của ông Ba lẫn người trong cuộc, bé Thu khóc và ông Sáu cũng không kìm được nước mắt.
Hóa ra, vết sẹo bên má là “vật cản đường” khiến hai cha con không thể nhận ra nhau sau tám năm cách trở. Bé Thu vì bảo vệ người ba trong bức ảnh mà quyết không chịu gọi ông Sáu bằng tiếng “ba” được cất giấu từ trong đáy lòng.
Nguyễn Quang Sáng với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc và tài xây dựng tình huống truyện tài hoa đã khắc họa rõ nét buổi sáng chia ly đắng cay nhưng cũng ngọt ngào giữa ông Sáu lẫn bé Thu.
Ngòi bút đậm đà chất Nam Bộ của Nguyễn Quang Sáng
Với văn phong đậm thanh điệu của người dân vùng Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng đã tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm qua cách xây dựng cốt truyện chặt chẽ, nhiều yếu tố xuất hiện bất ngờ nhưng hợp lý.
Ngòi bút miêu tả tâm lý đặc sắc, đặc biệt là trẻ em và nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả cũng là một trong những yếu tố làm nên thành công cho Chiếc lược ngà.
Người nghệ sĩ đã khéo léo lựa chọn góc nhìn thích hợp để thể hiện rõ nét “linh hồn” tác phẩm, ông Ba. Ông không chỉ là người chứng kiến và kể lại toàn bộ câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm với các nhân vật.
Với góc nhìn của người ngoài cuộc, khách quan nhưng thấm đẫm cảm xúc, độc giả khi đến với tác phẩm sẽ hiểu rõ hơn những suy nghĩ, hành động từ nhân vật, làm tăng thêm sức thuyết phục của tác phẩm.
Bạch Dương
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất