Mời trầu – Cái tôi độc đáo của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là nữ thi sĩ tài năng, lỗi lạc của nền văn học Việt Nam thời kỳ trung đại. Các tác phẩm do bà sáng tạo đều phảng phất sự tự ý thức nữ quyền cùng tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho con người.

Mời trầu là một áng thơ đặc sắc, bộc lộ phần nào cá tính và bản lĩnh của Bà Chúa thơ Nôm. Bà đã dũng cảm vượt qua các lễ giáo phong kiến hà khắc để phơi trải lòng mình, đến với tình yêu bằng thái độ chủ động, chân thành.

Mời trầu
Mời trầu – Cái tôi độc đáo của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương

Cái tôi độc đáo của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương và tác phẩm Mời trầu

Hồ Xuân Hương sinh năm 1772 tại Thăng Long, mảnh đất đã sản sinh ra nhiều tài năng nghệ thuật hiếm có. Theo ghi chép từ cuốn Giai nhân dị mặc, bà là con gái của Sinh đồ Hồ Phi Diễn, quê gốc ở Nghệ An.

Sinh ra trong thời đại có nhiều biến động nhưng Hồ Xuân Hương vẫn có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự lớn Cổ Nguyệt đường. Ngay từ nhỏ, bà đã tỏ ra là một người thông minh và đam mê nghiền ngẫm văn chương sách vở.

Hồ Xuân Hương được cưới gả từ rất sớm nhưng qua hai lần đò vẫn chưa tìm thấy bến đỗ viên mãn. Điều này cũng trở thành nguồn cảm hứng, khiến bà dệt nên những vần thơ đau đáu về kiếp hồng nhan.

Xuyên suốt trong nhiều tác phẩm của nữ thi sĩ là nỗi niềm cảm thông sâu sắc đối với cuộc đời người phụ nữ khi phải chịu đựng phận làm vợ lẽ, cảnh góa bụa và cô đơn. Bà cũng chỉ rõ sự bất hạnh này này xuất phát từ giai cấp phong kiến thống trị với các hủ tục lạc hậu, hà khắc.

Mỗi khi đả kích và phê phán bộ máy phong kiến cầm quyền, giọng điệu nhà thơ trở nên mỉa mai, trào phúng hơn bao giờ hết. Tuy vậy, bà vẫn tràn đầy niềm tin vào cuộc sống, gói ghém trong thi ca ước mơ khát vọng hạnh phúc lứa đôi.

Hồ Xuân Hương không chấp nhận bị trói buộc bởi những quy định cũng như lề thói lỗi thời. Bà tự tin thể hiện tài năng và cá tính, đặt mình ngang hàng với đấng mày râu.

“Với những quan điểm còn tồn tại “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, một người phụ nữ dám đặt vấn đề cần phải có tự do bình đẳng trong tình yêu, so sánh tư tưởng của thời kỳ Phục hưng trong văn học phương Tây thì tư tưởng ấy quá vĩ đại và mạnh mẽ. Chính sự đặc sắc ấy mà Hồ Xuân Hương nổi bật trong văn học Việt Nam và thế giới, đến bây giờ vẫn chưa có một Hồ Xuân Hương như thế.” – Tiến sĩ Đoàn Hương nhận xét về nét cá tính của Hồ Xuân Hương

Bà đã để lại cho đời nhiều thi phẩm quý giá, thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Các sáng tác tiêu biểu phải kể đến là Bánh trôi nước, Mời trầu hay Cảnh khuya, Tự tình ITự tình II.

Mời trầu được ví như một trong các áng thi ca thể hiện rõ tài năng cùng cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác phẩm là lời động viên, cổ vũ người phụ nữ vượt qua bức tường lễ giáo phong kiến hà khắc để giành lấy hạnh phúc lứa đôi, sống hết mình với cuộc đời.

Nhan đề độc đáo của thi phẩm Mời trầu

Là một hiện tượng độc đáo của nền văn học đương thời, Hồ Xuân Hương luôn khiến độc giả phải bất ngờ bởi ngòi bút phóng khoáng và cởi mở. Ở thi phẩm Mời trầu, Bà chúa thơ Nôm đã sáng tạo nên nhan đề đặc biệt, chứa đựng nhiều nét nghĩa sâu sắc.

Mời trầu là một nét đẹp truyền thống của nền văn hóa Việt Nam, thường xuất hiện trong đám rước dâu cũng như cưới hỏi. Nó tượng trưng cho mong muốn kết mối lương duyên và lòng thủy chung sâu sắc.

Hồ Xuân Hương hiểu rõ hơn ai hết ý nghĩa của miếng trầu cùng thủ tục này. Vì vậy, bà đã đặt tên cho thi phẩm là Mời trầu, thể hiện khao khát tình yêu lứa đôi.

Bên cạnh đó, nhan đề tác phẩm còn phần nào bộc lộ cả sự dũng cảm, chủ động kiếm tìm hạnh phúc của người phụ nữ. Trong xã hội đương thời, những kiếp hồng nhan không được tự quyết định tương lai và hôn nhân mà phải nghe theo sắp xếp từ phía cha mẹ.

Mang trong mình quan điểm mới mẻ và suy nghĩ hiện đại, Hồ Xuân Hương không cam chịu điều đó. Bà mong những người phụ nữ hãy biết đấu tranh đòi quyền công bằng, tự làm chủ hạnh phúc cũng như vận mệnh của mình.

Ngòi bút sắc sảo và trái tim mẫn cảm với số phận con người đã cùng nhau tạo nên một nhan đề giàu tính nhân văn. Nó còn góp phần bộc lộ cả tư tưởng tác phẩm, khẳng định tài năng nghệ thuật không thể trộn lẫn của nhà thơ.

Hình ảnh quả cau miếng trầu trong thi phẩm

Bên cạnh biệt danh Bà Chúa thơ Nôm, Hồ Xuân Hương còn được người đời ưu ái gọi bằng cái tên thi sĩ bình dân. Ấy là bởi vì, các sáng tác của bà đều in đậm sắc màu dân gian, từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh.

Khác với Bà Huyện Thanh Quan, nữ thi sĩ theo đuổi phong cách thơ bình dị dân dã. Vì vậy, bà thường mang vào tác phẩm các chất liệu gần gũi trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Mở đầu thi phẩm Mời trầu, tác giả đã trực tiếp khắc họa hình ảnh quả cau quen thuộc. Nó mang hình dáng nhỏ bé, tựa như thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công.

Để tô đậm sự nhỏ bé ấy, Hồ Xuân Hương đã sử dụng từ láy “nho nhỏ”. Thủ pháp nghệ thuật này cũng khiến câu thơ trở nên sinh động, thu hút và giàu nhịp điệu hơn.

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi” – Mời trầu

Hình ảnh quả cau được nữ thi sĩ đặt cạnh miếng trầu tươi xanh, gợi nhắc nét đẹp văn hóa dân tộc và lòng chung thủy sắc son. Chúng trở thành thứ để đôi lứa tỏ lời yêu thương, hứa hẹn kết duyên vợ chồng.

“Trầu không vôi ắt là trầu nhạt

Cau không hạt ắt là cau già

Mình không lấy ta ắt mình thiệt

Ta không lấy mình biết ai.” – Hình ảnh trầu cau xuất hiện trong ca dao dân tộc

Chúng không chỉ là quả cau miếng trầu thông thường mà chứa đựng biết bao tâm sự, mong ước đẹp đẽ của Hồ Xuân Hương. Bà hy vọng tìm được bến đỗ bình yên, sống những ngày tháng hạnh phúc bên người mình yêu.

Không chỉ vậy, tác giả còn khẳng định chủ quyền đối với miếng trầu vừa được mời kia. Nó như lời tuyên bố thẳng thừng, quyết bảo vệ và gìn giữ hạnh phúc thuộc về mình.

“Này của Xuân Hương mới quệt rồi” – Mời trầu

Hồ Xuân Hương là một trong số ít nhà thơ trung đại dám mang tên mình vào thơ ca. Nó xuất phát từ lòng tự tôn cùng sự tự ý thức giá trị của bản thân, không muốn sống một đời tẻ nhạt, luồn cúi.

Cái tôi cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến coi thường phẩm giá người phụ nữ, đẩy họ vào con đường làm vợ lẽ, phải san sẻ tình yêu. Với tư cách nghệ sĩ chân chính, tác giả không chấp nhận điều này mà trực tiếp đánh dấu và khẳng định chủ quyền.

Niềm mong ước về hạnh phúc lứa đôi trong Mời trầu

Ngòi bút Hồ Xuân Hương vừa phóng khoáng, ngang tàng nhưng cũng rất mực chân thành, tha thiết. Chưa bao giờ tâm hồn bà ngừng mong mỏi về một tương lai đủ đầy, ngập tràn hạnh phúc lứa đôi.

Trong thi phẩm Mời trầu, nhà thơ đã một lần nữa cất lên nỗi lòng của mình nói riêng và người phụ nữ xã hội đương thời nói chung. Họ luôn mong ước cuộc sống bình yên, êm đềm bên người mình thực sự yêu thương.

“Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.” – Mời trầu

Thấp thoáng trong từng câu chữ là nỗi niềm khao khát đến khắc khoải tình yêu đôi lứa. Hồ Xuân Hương đã trực tiếp phơi trải tấm lòng mình lên tác phẩm, không chút e dè hay lo sợ.

Một điều đặc biệt trong Mời trầu là tác giả đã chủ động hỏi chàng trai “có phải duyên nhau”. Nếu như cả hai cùng có tình cảm với đối phương thì cứ đến bên nhau, xây dựng tương lai bền lâu.

Chi tiết này đã thể hiện sự tiến bộ trong quan điểm và tư tưởng của nhà thơ. Mang phận nữ nhi nhưng bà không chờ đợi “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” mà tự kiếm tìm, làm chủ vận mệnh mình.

Đã từng trải qua hai lần hôn nhân đổ vỡ nên Hồ Xuân Hương hiểu hơn ai hết tình cảnh tội nghiệp của phụ nữ đương thời. Nếu như lấy phải người mình không yêu thương, cả cuộc đời họ sẽ chìm trong bóng tối và sầu não.

“Mời trầu thể hiện “một tâm trạng vừa đằm thắm lại vừa chua chát”; “chua chát là ở hai câu cuối.” – Tác giả Nguyễn Lộc bình luận về âm điệu trầm buồn ở hai câu cuối bài thơ

Vì vậy, bà mượn hình ảnh lá trầu cùng vôi trắng ngụ ý nhắc nhở đến những người phụ nữ đang do dự, không dám theo đuổi tình yêu. Hồ Xuân Hương mong rằng nếu đã có duyên với nhau rồi thì hãy biết cách trân trọng, đừng phụ bạc nhau để rồi chia lìa và đau khổ.

Tác giả đã diễn tả tinh tế lời mời khách ăn trầu bằng cách sử dụng biện pháp đối lập màu sắc là “đỏ thắm” và “xanh bạc”. Nó không chỉ tỏ lòng hiếu khách mà còn bộc lộ cả ước ao giam cảm, hòa hợp giữa những tâm hồn đồng điệu, yêu thương nhau.

“Mời trầu là một tâm sự, một nỗi niềm, với bài thơ Mời trầu Xuân Hương đã chủ động mời, chủ động mở đầu một lời giao ước.” – Giáo sư Lê Trí Viễn nhận xét về tác phẩm Mời trầu

Dù trải qua nhiều biến cố, Bà Chúa thơ Nôm vẫn tràn đầy niềm tin vào ngày mai tươi sáng. Tâm hồn tác giả luôn khao khát được yêu, sống một cuộc đời trọn vẹn, không còn gì hối tiếc.

“Bài thơ đầy màu sắc tươi tắn, đằm thắm ấy đồng thời lại thể hiện một tâm hồn trẻ trung yêu đời và một tấm lòng khát khao yêu và được yêu.” – Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về Mời trầu

Nữ thi sĩ đã dùng thơ ca để khuyến khích, tiếp thêm sức mạnh cho người phụ phụ nữ trong công cuộc đi tìm hạnh phúc cá nhân. Đây cũng chính là hạt nhân của tinh thần nhân đạo, giúp tên tuổi Hồ Xuân Hương trường tồn với thời gian.

Ngòi bút tài hoa và độc đáo của nhà thơ Hồ Xuân Hương

Mời trầu để lại dấu ấn khó phai mờ nơi tâm hồn độc giả không chỉ bởi bức thông điệp sâu sắc mà còn cả đôi bàn tay tài hoa của Hồ Xuân Hương. Bà đã vận dụng thành công thể thơ thất ngôn tứ tuyệt có quy định nghiêm khắc về niêm luật và bằng trắc.

Không chỉ vậy, nữ thi sĩ còn khẳng định sự nữ tính cùng cá tính mạnh mẽ, ngang tàng ở từng câu chữ. Bà khảng khái khẳng cái tôi cá nhân, thay đổi giọng điệu lúc thì nhỏ nhẹ, dịu dàng khi lại cứng rắn, kiên quyết.

Bên cạnh đó, Hồ Xuân Hương còn rất có ý thức gìn giữ, kế thừa vốn ngôn ngữ dân gian. Không chỉ riêng bài Mời trầu, nhà thơ cũng đã nhiều lần vận dụng ca dao, thành ngữ và cả tục ngữ vào tác phẩm của mình.

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ tài hoa và giàu lòng trắc ẩn. Từ tình duyên long đong chìm nổi của mình, bà đã hướng tâm thức cùng ngòi bút ra xa, cảm thông cho nỗi đau chung mà người phụ nữ phải gánh chịu trong xã hội phong kiến đương thời.

Lên đầu trang