Bên cạnh Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín là tiếng thơ đầy trong trẻo trong sự nghiệp thi ca của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm vừa dựng nên bức tranh xuân tươi đẹp lại bộc lộ cả những dòng xúc cảm, tâm tư bất định đang trào dâng nơi cõi lòng thi sĩ.
Thi phẩm được chấp bút vào năm 1973, trong quãng thời gian đầu nhà thơ lâm bệnh nặng. Cho đến nay, sức hấp dẫn cùng những giá trị về mặt nội dung lẫn nghệ thuật của Mùa xuân chín vẫn vẹn nguyên, trở thành thỏi nam châm thu hút độc giả nhiều thế hệ.

Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ ca độc đáo
Tác giả tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 tại làng Lệ Mỹ, tỉnh Quảng Bình. Hàn Mặc Tử thuở nhỏ sở hữu thân hình ốm yếu, tính cách hiền lành, hòa nhã và đặc biệt vô cùng hiếu học, có niềm say mê đọc sách.
Chính đam mê ấy đã nhen nhóm trong tâm hồn ông ngọn lửa của văn chương. Năm mười sáu tuổi, Hàn Mặc Tử bén duyên với thi ca và sau đó được Phan Bội Châu giới thiệu tác phẩm Thức khuya lên báo.
Vào năm 1936, thi sĩ cho ra đời tập thơ Gái quê nổi tiếng và cũng chính lúc này, Hàn Mặc Tử phát hiện bị bệnh phong. Tuy phải chiến đấu với nỗi đau đớn về mặt thể xác, ông vẫn miệt mài sáng tác, cống hiến hết mình vì nghệ thuật.
Những nỗi đau ấy đã cộng hưởng với trái tim nhiệt huyết, bản năng sáng tạo để chắp cánh cho các áng thi ca Hàn Mặc Tử vươn xa. Ông viết thơ như một cách giải tỏa nỗi lòng, thể hiện tình yêu cùng khát khao được sống.
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ – sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui buồn hờn giận đến gần đứt sự sống.” – Hàn Mặc Tử thể hiện tình yêu cùng niềm khao khát được sống
Nhà thơ cũng thuộc nhóm tiên phong trong việc cách tân, đổi mới thi pháp phong trào Thơ Mới. Ngòi bút ông có sự kết hợp tinh tế, nhuần nhuyễn giữa chất lãng mạn, tượng trưng và siêu thực.
Các sáng tác của thi sĩ đều dựa vào dòng hồi tưởng về kỷ niệm cũ cùng những xúc cảm trào dâng trong tâm hồn. Thơ ông không gò bó mà ngược lại, vô cùng phóng khoáng và rộng mở.
Không chỉ vậy, bút pháp Hàn Mặc Tử còn có sự hoà quyện giữa chất phương Đông và Tây, truyền thống cũng như hiện đại. Do đó, trong sáng tác của ông, ngôn từ chỉ đóng vai trò đòn bẩy, là phương tiện để độc giả phát huy trí tưởng tượng phong phú.
Nghệ sĩ tài hoa ấy đã để lại cho đời cùng nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc, giàu giá trị. Một số sáng tác tiêu biểu phải kể đến là tập Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954) hay Ánh sáng và phù sa (1960) và Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967).
Mùa xuân chín là áng thơ tiêu biểu cho phong cách thi ca của Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử là một cây bút tài hoa và nhiệt huyết, đặt cả tấm lòng vào trang thơ. Tác phẩm Mùa xuân chíncũng không phải ngoại lệ, từng câu chữ tuôn ra đều chan chứa tình cảm cùng bao mong mỏi, hy vọng của nhà thơ.
Sáng tác này nằm trong phần đầu của tập Thơ điên, ra mắt công chúng vào năm 1937 trên giai phẩm Nắng xuân. Chính đứa con tinh thần ấy đã mang tên tuổi Hàn Mặc Tử đến gần hơn với những người yêu mến thi ca nói riêng và nghệ thuật nói chung.
Mùa xuân chín để lại ấn tượng khó phai mờ nơi tâm hồn người thưởng thức bởi nó thể hiện đủ đầy, trọn vẹn phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử. Tác phẩm là một thế giới lung linh sắc màu, có sự phối hợp giữa nhiều bút pháp và đầy ắp tình ý sâu xa.
Ngoài thi phẩm ấy, Hàn Mặc Tử còn có hẳn một tập Xuân như ý với các áng thi ca đặc sắc như Xuân gấm, Xuân hôn phối, Xuân trẻ hay Xuân non. Ấy là vì, thi sĩ ưu ái và say đắm mùa của sự sinh sôi, tươi mới để rồi dành những câu chữ đẹp đẽ nhất ngợi ca.
Nhan đề giàu sức gợi và khung cảnh tràn đầy sức sống trong Mùa xuân chín
Hàn Mặc Tử là nghệ sĩ chân chính, ý thức được trách nhiệm cao cả của người cầm bút. Vì vậy, ngay từ nhan đề tác phẩm, độc giả đã bắt gặp một cái tôi hăng say những đổi mới nghệ thuật.
Mùa xuân là một phạm trù thời gian, vì thế mà mang tính mơ hồ và trừu tượng. Tuy nhiên trong cảm quan cùng cách thể hiện của nhà thơ, nó lại cụ thể cũng như dễ mường tượng hơn bao giờ hết.
Tài năng văn học thiên bẩm và đôi bàn tay tài hoa của ông song hành cùng nhau để rồi kết tinh thành nhan đề “mùa xuân chín”. Thi sĩ đã hình tượng hóa khái niệm thời gian, ví von nó như thứ quả căng mọng, tràn đầy sức sống.
Không chỉ vậy, bằng việc sử dụng động từ “chín” một cách táo bạo, ông còn bộc lộ tâm trạng hoang mang, lo sợ về tương lai. Giây phút sắc xuân đạt đến độ tươi đẹp nhất vừa là đỉnh điểm lẫn giao điểm, báo hiệu sự phai tàn sắp tới.
Đây là một quan niệm rất riêng và độc đáo của thi sĩ, chi phối toàn bộ mạch cảm xúc bài thơ. Vẻ đẹp mùa xuân được đẩy đến tột cùng, khiến những kẻ trân trọng từng giây phút trong cuộc sống cảm thấy lo sợ, ám ảnh không thôi.
Tuy bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thần bởi cơn bạo bệnh, Hàn Mặc Tử vẫn rất yêu mến cuộc đời. Đối với ông, không điều gì quý giá và đẹp đẽ hơn việc được sống, tận hưởng từng giây phút bên cạnh những người thân thương.
Vì vậy, mở đầu bài thơ Mùa xuân chín, tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên giàu sức sống. Khung cảnh ấy vô cùng quen thuộc và gần gũi với đời sống nhân dân ngày trước.
“Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.” – Mùa xuân chín
Câu thơ viết ra thấm đẫm tính dân tộc, tái hiện bức tranh nông thôn Việt Nam yên bình, nên thơ với “mái nhà tranh”. Đây là hình ảnh quen thuộc và thân thương, ăn sâu vào ký ức cộng đồng như một biểu tượng của quê hương muôn đời.
Không chỉ Hàn Mặc Tử mà các cây bút khác cũng rất mực nâng niu, trân quý mái nhà gắn với nhiều kỷ niệm từ thuở xa xưa ấy. Nếu như Nguyễn Khuyến khắc họa hình ảnh “Năm gian nhà cỏ thấp le te” thì Đoàn Văn Cừ lại miêu tả “Nhà tre, mái rạ, vách bùn rơm”.
Tác giả khiến bức tranh làng quê với những gian nhà tranh trở nên đẹp đẽ và lung linh hơn bằng cách điểm xuyết chi tiết “lấm tấm vàng”. Đó không chỉ là sắc màu của lớp rạ vẫn còn mới mà cả ánh nắng ban mai, tất cả hòa vào nhau tạo nên một khung cảnh tuyệt mỹ.
Ngay trong cách miêu tả làn nắng cũng vô cùng mới lạ, thể hiện tài quan sát cùng khả năng liên tưởng độc đáo trong phong cách thi ca Hàn Mặc Tử. Tính từ “ửng” vừa chỉ màu sắc, lại bộc lộ cả xúc cảm, sự e thẹn hệt như cô thiếu nữ tuổi đôi mươi.
Trong bài thơ Mùa xuân chín, bức tranh làng quê Việt Nam không lặng im mà vô cùng sống động với âm thanh “sột soạt” từ “gió trêu tà áo biếc”. Tác giả đã vận dụng một cách khéo léo biện pháp đảo ngữ cùng nhân hóa, báo hiệu không khí sôi động, đầy hứng khởi của xuân sang.
“Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang.” – Mùa xuân chín
Từ mái nhà tranh quen thuộc, thi sĩ bỗng thay đổi điểm nhìn trần thuật, hướng tầm mắt đến giàn thiên lý rực rỡ sắc xanh. Ở nơi ấy, có bóng dáng nàng xuân đang khẽ lướt qua, chuyên chở biết bao niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi đẹp.
Qua đôi mắt thi nhân, mùa xuân vốn là một khái niệm mơ hồ, khó nắm bắt lại trở nên hữu hình, phập phồng sức sống. Bức tranh thiên nhiên cũng vì thế mà càng thêm sinh động, thơ mộng với đầy đủ màu sắc, âm thanh.
Tình xuân thấm đượm trong thi phẩm
Trong ngòi bút nhà thơ, không khí xuân thì tràn ngập khắp không gian, len lỏi và khơi dậy ở vạn vật xung quanh tâm trạng hồ hời, phấn khích. Điều này được thể hiện qua dáng vẻ tươi tắn, xanh mơn mởn của bờ cỏ non.
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.” – Mùa xuân chín
Cách miêu tả sức sống đang trỗi dậy bên trong làn cỏ xanh ấy của ông có phần tương đồng với đại thi hào Nguyễn Du. Chính những áng văn chương đậm đà truyền thống cùng niềm tự hào dân tộc đã ăn sâu vào tiềm thức, ảnh hưởng đến cảm hứng sáng tác cho Hàn Mặc Tử.
“Cỏ non xanh tận chân trời.” – Trích từ Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du
Tuy nhiên, nếu Nguyễn Du khắc họa sắc xanh trải dài khắp không gian theo bề rộng thì tác giả lại nhấn mạnh sự chuyển động gợn mãi đến tận bầu trời cao của bờ cỏ. Có lẽ ông muốn lột tả sức sống cùng những xúc cảm mạnh mẽ bên trong thiên nhiên khi mùa xuân tràn về.
Tình xuân không chỉ nảy nở trong cảnh vật mà còn len lỏi vào cả tâm hồn con người. Sự song hành hòa điệu như thế đã tạo nên sức hút cho Mùa xuân chín, đồng thời khẳng định đôi bàn tay tài hoa của Hàn Mặc Tử.
“Hai vẻ xuân chín này diễn ra vừa đồng thời ở người và cảnh, vừa giao ứng giữa cảnh với người. Nói cách khác là cả hai chín cùng nhau, chín sang nhau và chín trong nhau.” – Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn nhận xét tác phẩm Mùa xuân chín
Bức tranh mùa xuân giờ đây có cả tiếng hát ngân nga của các cô thôn quê dịu dàng và đằm thắm. Giai điệu ấy vang vọng khắp nơi, khiến chiều kích không gian cũng vì vậy mà trở nên xa rộng, mênh mông hơn.
“Bao cô thôn nữ hát trên đồi.” – Mùa xuân chín
Đến hai câu thơ tiếp theo, từng câu chữ do thi sĩ viết ra đều tràn ngập cảm xúc. Niềm vui xuân giờ đây đã hòa cùng hạnh phúc lứa đôi, kết thành quả ngọt tình yêu và hứa hẹn một cuộc sống viên mãn, đủ đầy.
Không dừng lại ở đó, ý thơ còn vương vấn chút sầu thương xen lẫn tiếc nuối cho tuổi xuân xanh tươi đẹp chỉ đến một lần trong đời. Rồi mai đây, những nàng thiếu nữ ấy sẽ trở thành người vợ và mẹ đảm đang, mang trong mình bao trọng trách cao cả.
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi.” – Bài thơ Giục giã của tác giả Xuân Diệu
Tuy chẳng giục giã gấp gáp như Xuân Diệu nhưng câu chữ thi sĩ viết ra đều thể hiện nỗi lo sợ, nhạy cảm với bước đi của mùa xuân. Có lẽ ông đã cẩn thận gói ghém tình cảm, sự trân trọng thời gian vào trong đứa con tinh thần Mùa xuân chín.
Nỗi niềm ở hồn thơ Hàn Mặc Tử cũng giống tâm trạng của vị khách vô tình đi ngang trần gian vào thời điểm mùa xuân đẹp nhất để rồi luyến lưu. Nó xuất phát từ nỗi đau ông đang mang trong mình, dù yêu thương và thiết tha với cuộc đời nhưng luôn phải day dứt khi sắp phải chia lìa.
Lòng xuân gửi vào Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử
Thi ca chính là nơi nghệ sĩ giải tỏa cảm xúc, gửi gắm vào lời thơ, con chữ những suy tư và trăn trở về con người cũng như cuộc sống. Mỗi lần lật trang sách, độc giả sẽ bắt gặp một Hàn Mặc Tử với nhiều cung bậc tình cảm khác nhau.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây,
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây…” – Mùa xuân chín
Khi tiếng hát rạo rực say đắm đến mức “hổn hển” thì tình xuân cũng đạt đến độ nồng nàn nhất. Nó là thanh âm của những cô thôn nữ và cả nước mây, dường như thiên nhiên lẫn con người đã cùng cất lên bản hòa ca bất tận.
Không chỉ riêng Mùa xuân chín mà ở áng thi ca Đây thôn vĩ dạ sáng tác năm 1938, Hàn Mặc Tử cũng nhắc đến cây trúc cùng nhân vật “ai”. Có lẽ chúng đã đi sâu vào trong thế giới nghệ thuật, trở thành biểu tượng cho phong cách tác giả.
Trong khổ thơ này, thi nhân đã sử dụng đến tận ba từ láy liên tục là “vắt vẻo”, “hổn hển” và “thầm thĩ” thuộc các trạng thái khác nhau của tiếng hát. Người thưởng thức cũng vì thế mà cảm nhận một cách chân thực, đầy đủ mọi cung bậc âm thanh, lúc trầm bổng khi lại du dương.
Đến khi xuân đã hoàn toàn “chín”, không còn dáng vẻ tươi tắn và thơ mộng như xưa cũng là lúc lòng người trĩu nặng nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Tâm hồn nhà thơ bỗng chốc chìm đắm miên man trong dòng suy nghĩ về nhân vật “chị ấy” năm nào.
“Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
– “Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” – Mùa xuân chín
Thế giới nhân vật trong Mùa xuân chín chẳng có tên, chỉ được Hàn Mặc Tử nhắc đến qua hình ảnh “bao cô thôn nữ” hay đại từ phiếm định “ai” cùng “chị ấy”. Thế nhưng, sự xuất hiện của họ đã góp phần thổi bùng sức sống, làm cho bức tranh xuân cũng trở nên ý vị, giàu chất trữ tình hơn.
Dòng tâm tư bất định của Hàn Mặc Tử trong áng thi ca
Đối tượng của thi ca lãng mạn là cái tôi cá nhân, vì vậy mạch thơ dựa vào các biến chuyển cảm xúc và tâm trạng con người. Mùa xuân chín được chấp bút bởi Hàn Mặc Tử cũng không phải ngoại lệ, xuyên suốt tác phẩm ngập tràn dòng tâm tư đầy bất chợt, chẳng tuân theo sự dẫn dắt từ lý trí.
Dường như hình ảnh làng quê với những mái nhà tranh, giàn thiên lý hay cô thôn nữ thực chất là một chuỗi “sực nhớ”. Nó tồn tại và ám ảnh tâm trí nhà thơ suốt quãng thời gian dài, đan cài chồng chéo tạo nên nỗi đau quặn thắt trái tim.
“Về thực chất đó là kiểu liên kết siêu lôgíc rất đặc trưng của Thơ điên. Toàn bài là một dòng tâm tư đầy những bất chợt cứ trôi chảy với hai biểu hiện trái chiều: mạch hình ảnh phía trên thì theo liên tưởng tán lạc, mạch tâm tư bên dưới thì theo cảm xúc nhất quán – nhưng là kiểu nhất quán đầy uẩn khúc chứ không hề giản đơn.” – Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn nhận xét về mạch cảm xúc trong bài Mùa xuân chín
Đương lúc say đắm trong cảnh sắc mùa xuân hiện tại, thi sĩ đột ngột bước sang trang mới, thấp thỏm lo âu về sự chảy trôi của thời gian. Vì vậy, mạch cảm xúc bài thơ cũng được chia thành hai thái cực đối lập, một bên rạo rực đến mức “hổn hển”, phía còn lại thì “bâng khuâng” rồi “xa vắng”.
Những đặc sắc nghệ thuật của thi phẩm Mùa xuân chín
Mùa xuân chín để lại ấn tượng khó quên nơi trái tim người thưởng thức không chỉ bởi khung cảnh làng quê đẹp đẽ, chan chứa tình xuân mà còn cả những nét đặc sắc trong nghệ thuật. Bằng ngòi bút tinh tế và tài hoa, Hàn Mặc Tử đã dệt nên lời văn rất mực nên thơ, sắc sảo.
“Không ai ngoài Hàn Mặc Tử có thể viết như thế… Câu thơ mang chiều kích của vũ trụ mà vẫn tự nhiên như không, siêu thoát mà vẫn trần tục với chuyện Rách rưới, Vá víu, Vải vóc.” – Giáo sư Lê Đình Kỵ nhận xét về thơ Hàn Mặc Tử
Nhà thơ đã tạo nên một thế giới lung linh và rực rỡ với trường từ vựng chỉ màu sắc đa dạng, phong phú. Ấy là sắc vàng ở mái nhà tranh, xanh của tà áo cùng làn cỏ hay bờ cát trắng dọc con sông.
Đâu chỉ vậy, thi nhân còn phối hợp vô cùng khéo léo và hài hòa các gam màu cũng như âm thanh. Chúng tạo thành bức tranh xuân gần gũi, quen thuộc nhưng cũng không kém phần rạng rỡ, đặc sắc.
Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật như đảo ngữ, so sánh hay nhân hóa cũng được ông vận dụng hợp lý và tài tình. Nó vừa nhấn mạnh vẻ đẹp của khung cảnh mùa xuân, lại lột tả những cảm xúc trong hồn người.
Ngoài ra, nhà thơ Hàn Mặc Tử còn sử dụng nhiều từ láy, kết hợp với thanh bằng cũng như cách ngắt nhịp linh hoạt, gieo vần tài tình. Tất cả điều này đã tạo nên âm thanh cùng nhịp điệu réo rắt, ngân vang cho cả bài thơ.
Nhiều năm tháng đã trôi qua nhưng Mùa xuân chín cùng các tác phẩm của Hàn Mặc Tử vẫn trường tồn. Có lẽ vì chúng gieo vào tâm hồn độc giả tình yêu thương, sự trân trọng cuộc sống cũng như mọi người xung quanh.