Tha phương cầu thực – Nỗi đau của các phận đời phiêu bạt

Thành ngữ “Tha phương cầu thực” ám chỉ người phải rời bỏ quê hương, di chuyển đến vùng đất xa lạ để kiếm kế sinh nhai. Ngoài đời sống hàng ngày, nó còn xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn học với mục đích nhấn mạnh nỗi đau của các phận đời phiêu bạt, lênh đênh.

Tha phương cầu thực
Tha phương cầu thực – Nỗi đau của các phận đời phiêu bạt

Ý nghĩa của thành ngữ Tha phương cầu thực

Thành ngữ này có cấu tạo gồm hai thành tố “tha phương” cũng như “cầu thực”. Trong đó, “tha phương” nghĩa là xứ lạ và “cầu thực” được hiểu theo nghĩa kiếm sống.

Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của “Tha phương cầu thực” không đơn thuần nằm tại khuôn khổ ấy. Bên cạnh việc chỉ sự kiếm sống ở phương trời xa xôi, nó còn được sử dụng để thể hiện những kiếp người lắm truân chuyên, phải lang thang nay đây mai đó.

Ở tầng nghĩa này, câu thành ngữ có vai trò như một phụ từ, kết hợp với động từ “đi” để nhấn mạnh phận người lênh đênh chìm nổi. Hơn nữa, nó còn xuất hiện biến thể khác là “Tha hương cầu thực”, cũng được sử dụng một cách rộng rãi.

Nhân vật người mẹ phải tha phương cầu thực trong Những ngày thơ ấu

Những ngày thơ ấu là một nốt nhạc buồn trong cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học của Nguyên Hồng. Hồi ký được tác giả chấp bút năm 1938 đã tái hiện chân thật một tuổi thơ vất vả, đầy rẫy đau thương.

Bên cạnh cậu bé Hồng, ông còn chú ý khắc họa nhân vật người mẹ tảo tần, suốt đời chịu nhiều đắng cay. Qua đó, Nguyên Hồng đã bộc lộ tình cảm sâu sắc dành cho bà cũng như toàn thể phụ nữ Việt Nam nói chung.

Nhân vật ấy là một người phụ nữ bất hạnh, chịu đựng cuộc hôn nhân phong kiến không có tình yêu. Sau khi chồng qua đời, bờ vai hao gầy kia phải lao động mưu sinh và gánh vác cả gia đình.

Chính vì hoàn cảnh quá khó khăn, bà đành ngậm đắng nuốt cay xa con và “tha phương cầu thực”. Tuy vậy, cuộc sống của mẹ cậu bé Hồng cũng chẳng khá khẩm hơn, thậm chí vấp phải những lời chỉ trích cay nghiệt từ phía gia đình chồng.

Thông qua hồi ký Những ngày thơ ấu cùng nhân vật người mẹ, Nguyên Hồng đã tái hiện một thời kỳ tăm tối của xã hội thời bấy giờ. Ở nơi ấy, phụ nữ không có quyền tự định đoạt hạnh phúc, cái nghèo cùng những hủ tục phong kiến cứ luôn bám riết và bóp nghẹt họ.

Nỗi niềm hoài hương của kẻ tha phương cầu thực ở Thu hứng

Nỗi nhớ quê nhà từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận, nuôi dưỡng các áng thơ ca. Tác phẩm Thu hứng của Đỗ Phủ cũng không phải là ngoại lệ, từng câu chữ in hằn trên trang giấy trắng đều thấm đẫm tấm lòng hoài hương.

Thi sĩ đã cẩn thận lồng ghép sự nhung nhớ quê hương trong bức tranh thiên nhiên độ vào thu ở Quỳ Châu. Càng về cuối bài thơ, nỗi niềm da diết ấy càng được bộc lộ mãnh liệt và sâu sắc.

Ngắm nhìn hoa cúc nở, Đỗ Phủ xót xa cho phận mình, thấm thía sự chua chát khi phải chạy loạn, “tha phương cầu thực”. Nhà thơ chỉ mong được một lần về lại nơi chôn rau cắt rốn, sống cuộc đời bình yên với những người thân yêu.

Trong xã hội Trung Hoa đương thời, có không ít kiếp người phải lênh đênh đó đây như tác giả. Họ ngậm ngùi rời xa mái ấm gia đình, một mình nơi xứ lạ để trốn chạy chiến tranh, loạn lạc.

Thấp thoáng dưới từng vần thơ là nỗi niềm ưu tư, bất an trước tình cảnh đất nước của thi sĩ. Ông mong tương lai sẽ không còn binh đao khói lửa, ai cũng được sống trong sự hạnh phúc, ấm no.

Sự vận dụng Tha phương cầu thực ở nhan đề Trưa tha hương

Trần Ngọc Cư là cây bút sở hữu âm hưởng sáng tác trầm buồn của văn học Việt Nam giai đoạn thời kỳ hiện đại. Vào năm 1973, ông cho ra đời tùy bút Trưa tha hương, nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ phía độc giả.

Áng văn tái hiện nỗi nhung nhớ quê mẹ da diết của một người con tha hương. Ngay từ nhan đề tác phẩm, độc giả đã cảm nhận một cách sâu sắc thứ xúc cảm này.

Tác giả Trần Ngọc Tư đã vận dụng vô cùng khéo léo và linh hoạt cách nói “Tha phương cầu thực”. Ông chỉ giữ lại vế đầu thành ngữ, kết hợp cùng trạng từ “trưa” để cụ thể hóa tình huống cũng như thời gian.

Chỉ bằng tiếng hát ru quen thuộc nơi ngoại quốc, tâm hồn nhân vật chính như được tưới mát với những kỷ niệm ở ruộng đồng và thôn xóm. Nó xoa dịu nỗi nhớ cồn cào, khiến lòng người cũng trở nên dịu nhẹ, yên bình hơn.

Lên đầu trang