Đồng chí là một trong những tác phẩm nổi bật của Chính Hữu, bài thơ khắc hoạ bức tranh đẹp đẽ, thiêng liêng về tình cảm mà những người lính Cụ Hồ dành cho nhau.

Cùng hoàn cảnh khốn khó và lý tưởng cao đẹp, họ gặp gỡ, làm quen, thấu hiểu rồi san sẻ từng miếng cơm manh áo giữa thời loạn lạc. Tuy trải qua hàng loạt phong ba sóng gió, tay chân người quân nhân có thể chai lì nhưng tình đồng chí vẫn nguyên vẹn như ngày nào.

Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trữ tình xen lẫn với bút pháp miêu tả hiện thực, Chính Hữu đã thành công trong việc mang thông điệp tác phẩm đến gần với người đọc.

Chính Hữu được đánh giá là nhà thơ quân đội thực thụ

Chính Hữu tên thật là Trần Đình Sắc, ông sinh năm 1926 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Nguyên quán của nhà thơ là huyện Can Lộc (huyện Lộc Tĩnh ngày nay) thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi sinh ra nhiều nhân tài đất Việt nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu.

Chính Hữu là nhà thơ chuyên viết về quân đội
Chính Hữu là nhà thơ chuyên viết về quân đội

Hoàn thành chương trình học tú tài ở Hà Nội, Chính Hữu gia nhập Trung đoàn Thủ Đô năm 1946. Tuổi trẻ trong ông gắn liền súng đạn và những người lính Cụ Hồ cùng chung chí hướng.

Sau khi đưa chính phủ đầu não Việt Minh ra khỏi vùng chiến sự, đơn vị của Chính Hữu trở về huyện Đông Anh. Nối dài hành trình cứu nước, ông được đưa đi bồi dưỡng chính trị và chính thức đảm nhận vai trò Chính trị viên Đại hội trong chiến dịch Việt Bắc.

Thi nhân bắt đầu làm thơ từ năm 1947, tuy không viết nhiều nhưng hầu hết tác phẩm của ông đều được đánh giá cao. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, Chính Hữu chỉ công bố ba tập thơ là Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1997), Tuyển tập Chính Hữu (1998) với khoảng năm mươi bài thơ.

Ông thường hướng đến chủ đề chiến tranh và người lính, bài thơ đầu tay Ngày về cũng thể hiện rõ điều này. Tác phẩm là cột mốc quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu với thơ ca cách mạng của Chính Hữu.

Vũ Quần Phương từng nhận xét rằng Chính hữu là “nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm”. Những trang thơ về người lính đi cùng với ông qua bao năm tháng, bộc lộ tình cảm chân thành, mãnh liệt mà ông dành cho sắc áo xanh nhiệm màu.

Thơ ông bình dị mà đặc sắc, giàu cảm xúc nhờ cách chắt lọc ngôn từ, hình ảnh khéo léo và hàm súc. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) cùng bài Đồng chí in trong tác phẩm này là ví dụ tiêu biểu cho thơ Chính Hữu.

Sau này, Đồng chí được phổ nhạc và trở thành một trong những tác phẩm viết về người lính cách mạng đặc sắc nhất của nền văn học thời kháng chiến chống Pháp, trải dài từ 1946 đến 1954.

Đôi nét về tác phẩm Đồng Chí

Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông và được in trong tập thơ Đầu súng trăng treo. Lúc bấy giờ, Chính Hữu là Chính trị viên Đại hội, ông từng theo đơn vị tham gia chiến đấu tại chiến khu Việt Bắc.

Sống trong sự quan tâm, đùm bọc của đồng đội, cùng nhau vượt bao khó khăn trên hành trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhà thơ xem những người lính như tri âm, tri kỷ của mình.

Đồng chí khắc hoạ mối quan hệ gắn bó của những người lính Cụ Hồ
Đồng chí khắc hoạ mối quan hệ gắn bó của những người lính Cụ Hồ

Sau khi chiến dịch kết thúc, Chính Hữu bị ốm nặng, phải tiếp nhận điều trị. Xuyên suốt giai đoạn này, ông được một đồng chí chăm sóc tận tình, giúp mình chiến thắng những ngặt nghèo của bệnh tật.

Vì cảm động, nhà thơ viết bài Đồng chí để khắc hoạ tình cảm gắn bó giữa quân nhân. Trên hết, bài thơ còn là lời cảm ơn chân thành mà Chính Hữu muốn gửi gắm đến người bạn chất phác, thật thà ấy.

Đồng chí thể hiện phong cách sáng tác đặc sắc của Chính Hữu, ông đã sử dụng ngôn từ một cách cô đọng mà gợi cảm. Thi phẩm nhanh chóng nổi tiếng và được xem như bài thơ xuất sắc về chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.

Nhan đề vỏn vẹn hai tiếng Đồng chí nhưng bộc lộ tinh thần một cách rõ rệt. Từ đồng chí vừa là danh từ chỉ người lính Cụ Hồ quả cảm, nghĩa tình, vừa là tiếng gọi đồng đội thân thương, ấm áp.

Tình đồng chí được hình thành dựa trên nhiều yếu tố

Lắng nghe tiếng gọi tha thiết từ Tổ quốc, bao chàng trai đất Việt tham gia kháng chiến để giành lại độc lập cho dân tộc. Rời xa quê hương, họ để lại mái nhà hiu quạnh cùng người thân ngày ngày trông mong, người lính do đó khó tránh cảm giác nhớ nhung, buồn bã.

Dẫu vậy, họ không bao giờ cô đơn, lẻ loi bởi xung quanh họ giờ đây là những đồng đội sẵn sàng “vào sinh ra tử”. Từ xa lạ, họ quen biết và rồi gần gũi sau khi trải qua biết bao gian khổ cùng nhau.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”

Với hai câu thơ này, Chính Hữu đã đề cập đến cơ sở đầu tiên để hình thành tình đồng chí, chính sự tương đồng trong hoàn cảnh xuất thân mà người lính dễ dàng kết nối với nhau.

Cấu trúc sóng đôi “quê hương anh” đi cùng với “làng tôi” và cặp thành ngữ dân gian “nước mặn, đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” cho thấy họ đồng cảnh ngộ. 

Nhân vật trữ tình “anh” đến từ vùng đất ven biển nhiễm phèn, nhiễm mặn, khó trồng trọt, cày cấy còn “tôi” thì ra đi từ nơi đồi núi, trung du, đất đá bị ong hoá nên nông dân khó canh tác.

Tình đồng chí được hình thành khi những người lính có cùng hoàn cảnh xuất thân và lý tưởng chiến đấu
Tình đồng chí được hình thành khi những người lính có cùng hoàn cảnh xuất thân và lý tưởng chiến đấu

Chính Hữu đã sử dụng hai cụm từ này một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn, giúp độc giả hình dung bức tranh miền quê nghèo khổ, nơi chôn nhau cắt rốn của những người anh hùng quả cảm.

Đều xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn nên họ thấu hiểu đối phương như bản thân mình. Nếu không cùng giai cấp, tầng lớp thì “anh” và “tôi” khó lòng xem nhau là tri kỷ, kể cả khi gắn bó mật thiết với nhau.

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau” 

Khi đã dành trọn tâm trí cho cách mạng thì mọi người lính đều có chung một lý tưởng. “Anh” và “tôi” trong Đồng chí cũng vậy, niềm mong muốn về một tương lai đất nước hoà bình đã giúp tình cảm của họ phát triển.

Trước khi nhập ngũ, họ chỉ là “đôi người xa lạ” đến từ những “phương trời” khác nhau, kẻ vùng biển, người miền trung du. Người lính chẳng hẹn mà gặp, chẳng ước mà trở thành những đồng đội thân thiết vì chung một mục đích cao cả là bảo vệ Tổ quốc.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.

Đồng chí!”

“Súng”, “đầu” tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng thiêng liêng, cấu trúc đối ứng cho thấy hai điều này song hành mọi lúc mọi nơi. Ngoài ra, câu thơ còn ám chỉ tình cảm gắn bó của người lính, họ không chỉ cùng hoạt động cách mạng mà còn cùng sinh hoạt trong đời sống thường ngày.

Những đêm ở Việt Bắc giá lạnh tột cùng, quân nhân phải đắp chung một chiếc chăn. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho khó khăn mà họ phải vượt qua và tình đồng chí khăng khít của họ.

Đi qua sóng gió rồi trở thành “đôi tri kỷ”, cùng chia ngọt sẻ bùi và sẵn sàng đồng cam cộng khổ. Hai tiếng “Đồng chí!” khi thốt lên vừa tha thiết, vừa thấm đẫm nghĩa tình mà in sâu vào lòng quân lính, vào lòng độc giả.

Những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí

Trong những câu thơ tiếp theo, Chính Hữu đã thể hiện nét đẹp của tình đồng chí là sự thấu hiểu, cảm thông, san sẻ. Người lính xa nhà, gặp gỡ rồi trở thành đồng đội, họ dễ dàng đồng cảm với nhau vì đều có tâm tư, nỗi niềm tương tự.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Cất bước ra đi chiến đấu vì Tổ quốc, người quân nhân đành bỏ lại sau lưng những điều gần gũi nhất. Họ không thể tiếp tục gắn bó với “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước”, “gốc đa” thân thuộc mà phải trao lại trách nhiệm chăm lo cho “bạn thân” hay thậm chí “mặc kệ”.

Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã cho thấy sự hy sinh cao cả của người lính và hoàn cảnh tương đồng giữa hai nhân vật trữ tình. Từ “mặc kệ” cũng thể hiện tinh thần dứt khoát nhập ngũ bởi họ biết làng quê chỉ yên bình khi được tự do, độc lập.

Những khoảnh khắc đồng cam cộng khổ đã nuôi dưỡng tình đoàn kết trong lòng người lính
Những khoảnh khắc đồng cam cộng khổ đã nuôi dưỡng tình đoàn kết trong lòng người lính

Hình ảnh “giếng nước gốc đa” ẩn dụ về người thân, quê nhà của các chiến sĩ, luôn luôn “nhớ người ra lính”. Tình đồng chí nhẹ nhàng là vậy, anh lính Cụ Hồ chia sẻ và cảm thông sâu sắc với nhau dù trước đó vốn xa lạ.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai 

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Từ sự thấu hiểu, họ đồng cam cộng khổ, san sẻ trong hoàn cảnh ngặt nghèo, thiếu thốn nơi chiến trường. Để mô tả điều đó, Chính Hữu dùng thủ pháp sóng đôi “anh”, “tôi” tạo nên sự song hành, gắn bó giữa hai anh bộ đội.

Vào những đêm giá rét, “anh với tôi” chịu đựng “từng cơn ớn lạnh”, bệnh sốt rét hoành hành khiến người lính “run người”, “vừng trán ướt mồ hôi”. Họ cùng nhau trải qua mọi gian nan, thử thách rồi đùm bọc lẫn nhau.

Ở nơi tiền tuyến, điều kiện vật chất sơ sài nên “áo anh” thì “rách vai” còn “quần tôi” lại “có vài mảnh vá”. Bộ trang phục được khoác lên người anh lính tuy rách rưới, chắp vá nhưng không làm mất đi vẻ đẹp quân nhân mà càng soi sáng tình cảm khăng khít của họ.

Dù không có quần áo chỉnh tề để mặc, không có giày dép để mang, hai anh lính vẫn lạc quan. Họ nở nụ cười để động viên bản thân, động viên đồng đội giữa bầu không khí “buốt giá”.

Sự khó khăn không bào mòn tinh thần của người chiến sĩ, nó làm tình đồng chí thêm sâu đậm, giúp họ quyết tâm đoàn kết hơn vì lý tưởng. Cái nắm tay trong Đồng chí truyền hơi ấm, hy vọng và nó cũng là cử chỉ biểu hiện sự chân thành.

Bên cạnh những khoảnh khắc sinh hoạt đời thường, “anh” và “tôi” còn gắn bó trong lúc thi hành nhiệm vụ. Vì xem nhau như anh em, họ sẵn sàng “vào sinh ra tử” cùng đối phương.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Câu thơ đầu tiên đề cập đến môi trường chiến đấu khắc nghiệt của bộ đội, nơi rừng rậm hoang vu, ngập tràn sương muối. Hiện tượng sương muối chỉ xuất hiện khi thời tiết quá lạnh, vốn thường gặp ở vùng cao, các tỉnh miền Bắc.

Với trách nhiệm đứng gác và phục kích “chờ giặc tới”, người lính không nề hà, e ngại. Họ “đứng cạnh bên nhau”, chuẩn bị tinh thần tiêu diệt địch vì mục tiêu chung. 

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” vừa mang nét trữ tình, lãng mạn vừa đậm chất hiện thực, câu thơ vẽ nên bức tranh hai anh lính đứng gác dưới ánh trăng. “Súng” tượng trưng cho chiến tranh, “trăng” tượng trưng cho hoà bình tuy đối lập mà hài hoà.

Người lính Việt Nam cầm súng để bảo vệ đất nước, mang lại sự thanh bình cho quốc gia, dẫu thân thể có trải qua bao sương gió thì trái tim họ chưa bao giờ khô cằn. Họ tựa những thi sĩ cách mạng, nhận thức hiện thực nhưng không ngừng tin tưởng ở tương lai tươi đẹp.

Đồng chí là thi phẩm để đời của Chính Hữu

Trong quá trình xây dựng sự nghiệp sáng tác, Chính Hữu không sở hữu gia tài đồ sộ như nhiều thi sĩ khác. Bù lại, mỗi bài thơ của ông đều có giá trị và ghi dấu ấn riêng trên nền văn học cách mạng Việt Nam.

Đồng chí là bài thơ tiêu biểu về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

Đồng chí là minh chứng cho nhận định này, trải qua nhiều thập kỷ thì tác phẩm vẫn được đánh giá cao bởi giới phê bình và độc giả đại chúng. Ngòi bút phóng khoáng, hàm súc mà giàu biểu cảm của Chính Hữu đã viết nên những câu thơ Đồng chí đi vào lòng người.

Trong giai đoạn đất nước ngập tràn bom đạn, khói lửa, thi phẩm mang đến sự gần gũi, lạc quan cho độc giả. Đặc biệt, với những anh lính xa nhà, gắn bó cùng đồng đội, họ càng thấu hiểu nỗi niềm mà tác giả muốn gửi gắm.

Ngày nay, khi Tổ quốc đã độc lập, hình ảnh chiến sĩ và tình đồng chí trong bài thơ vẫn có giá trị khắc hoạ người bộ đội Cụ Hồ quả cảm, không ngại khó khăn cũng như luôn đoàn kết một cách vững vàng.

Bích Thùy