Việt Bắc là một trong những sáng tác nổi tiếng của Tố Hữu, bài thơ ca ngợi Đảng, Bác Hồ và thể hiện tình quân dân, tình yêu thiên nhiên lẫn lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn.

Bên cạnh đó, tác phẩm còn là tiếng ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người bình dị nhưng mang phẩm chất anh hùng. Với thể thơ lục bát gần gũi, nhà thơ đã mang đến thi đàn Việt Nam một thi phẩm đẹp đẽ, thiêng liêng.

Tố Hữu là lá cờ đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, nhà thơ sinh năm 1920 và mất năm 2002 tại Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Xuất thân trong gia đình nhà Nho có truyền thống yêu thích thơ ca, Tố Hữu đã thừa kế tình yêu tha thiết với văn học dân gian từ cha mẹ. Cha Tố Hữu dạy ông làm thơ cổ, mẹ ông thì thuộc nhiều ca dao dân ca xứ Huế.

Vì vậy, tâm hồn thơ Tố Hữu đã gắn liền với đất nước Việt Nam ngay từ thuở nhỏ, mang đậm tính nhạc phong phú và sở hữu ngôn từ dung dị. Quê hương ông cũng góp phần hình thành nên hồn thơ giàu chất trữ tình lẫn tính dân tộc.

Tố Hữu là nhà thơ tài hoa với ngòi bút giản dị mà sâu sắc
Tố Hữu là nhà thơ tài hoa với ngòi bút giản dị mà sâu sắc

Năm mười ba tuổi, Tố Hữu vào trường Quốc học Huế, ngôi trường trung học phổ thông nổi tiếng, lâu đời tại thành phố Huế. Đây chính là nơi ông được tiếp xúc trực tiếp với tư tưởng Karl Marx, Vladimir Ilyich Lenin và nhiều hệ tư tưởng vô sản khác.

Cùng với sự vận động của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ, Tố Hữu sớm giác ngộ và theo đuổi cách mạng ở tuổi thiếu niên. Năm mười bảy, nhà thơ tham gia phong trào đấu tranh và trở thành lãnh đạo chủ chốt tại Đoàn thanh niên dân chủ Huế.

Năm mười tám, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng và bắt đầu hành trình bôn ba khi bị giam cầm tại hàng loạt nhà tù. Vượt ngục thành công vào năm 22 tuổi, thi hào đã liên lạc với Đảng và tiếp tục hoạt động bí mật tại tỉnh Thanh Hoá.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy Đảng và nhà nước. Suốt cuộc đời mình, Tố Hữu dành tình yêu sâu đậm cho quê hương, đất nước, điều này được thể hiện rõ qua những sáng tác của ông.

Khác với các nhà văn, nhà thơ chủ trương văn học vị nghệ thuật, Tố Hữu lại theo triết lý văn học vị nhân sinh. Ông cho rằng cuộc đời là nền tảng để sáng tác văn chương còn văn chương tái hiện cuộc đời bằng nét mực trung thực, chân thành.

“Văn chương không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.”

Bên cạnh đó, thi hào cho rằng cuộc sống đầy màu sắc nên nghệ thuật cũng phong phú, đồng nghĩa với việc người nghệ sĩ cần phải sáng tạo liên tục. Quan điểm này khá giống với tư tưởng Nam Cao, một nhà văn hiện thực tiêu biểu ở thế kỷ XX.

“Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.” – Nam Cao

Với Tố Hữu, thơ ca không chỉ là công cụ để truyền tải cảm xúc, ý tưởng mà còn là tri âm, tri kỷ quý giá. Vì lẽ đó, từng trang thơ, từng con chữ của ông bình dị, nhẹ nhàng mà thấm đượm tình cảm sâu sắc.

“Thơ là tiếng nói của tri âm.”

Giữa thời kỳ kháng chiến, Tố Hữu được mệnh danh là “lá cờ đầu” của nền văn học cách mạng Việt Nam. Chặng đường theo đuổi sự nghiệp thi ca của ông gắn bó mật thiết, phản ánh chân thật những giai đoạn cách mạng dân tộc.

Thơ Tố Hữu đậm chất trữ tình – chính trị, hướng “cái ta” chung với “cái tôi”, thiên về khuynh hướng sử thi và đậm đà tính dân tộc. Ba tập thơ Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng nằm trong nhóm tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ, trải dài từ năm 1937 đến 1961.

Đôi nét về tác phẩm và nhan đề Việt Bắc

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, miền Bắc được giải phóng và một trang sử mới của dân tộc đã mở ra. Vào tháng mười, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ tiến hành rời chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội.

Việt Bắc là nơi Tố Hữu sinh sống và làm việc xuyên suốt thời kỳ kháng chiến. Trong không khí hân hoan lẫn với tâm trạng nghẹn ngào khi chia tay chiến khu, ông đã sáng tác bài thơ Việt Bắc

Tác phẩm bao gồm hai phần, phần một tái hiện những kỷ niệm vui, buồn của cách mạng. Phần hai nói lên sự gắn bó giữa miền ngược, miền xuôi, gợi viễn cảnh tươi sáng và ca ngợi công ơn của Bác Hồ, của Đảng đối với đồng bào Việt Nam.

Nhan đề Việt Bắc ngắn gọn mà đầy ý nghĩa, đây là địa danh ở miền Bắc Việt Nam, là chiến khu chủ chốt trong thời kỳ chống Pháp. Tên thi phẩm gợi nhắc những sự kiện trong cuộc chiến gian khổ, thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp quê hương.

Không chỉ vậy, hai chữ “Việt Bắc” còn gắn liền với chiến công oanh liệt được tạo nên từ sự đồng lòng của Đảng, cán bộ và nhân dân Việt Nam. Tình cảm mà Tố Hữu gửi gắm cho đồng bào cũng nằm trọn vẹn trong nhan đề này.

Tình quân dân thắm thiết trong tác phẩm Việt Bắc 

Tám câu thơ đầu trong đoạn trích Việt Bắc viết về tình quân dân thắm thiết như tri kỷ, cuộc chia ly giữa hai miền ngược, xuôi để lại bao nỗi xốn xang trong lòng kẻ ở, người đi.

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Tác phẩm bắt đầu bằng bối cảnh chia xa khi các cán bộ của cơ quan Trung ương chuyển về Hà Nội. Sự kiện diễn ra vào thời khắc huy hoàng của dân tộc song nỗi lòng hai nhân vật trữ tình là người ở lại và người ra đi lại ngổn ngang cảm xúc.

Tố Hữu sử dụng đại từ “mình”, “ta” thường thấy trong ca dao, tục ngữ để bộc lộ mối quan hệ khăng khít giữa quân nhân với nhân dân. Cách xưng hô đầy âu yếm này thường được dùng cho các cặp đôi, thể hiện qua nhiều câu ca dân gian nổi tiếng.

“Mình về, mình nhớ ta chăng,

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.”

Người ở lại ngậm ngùi cất lên tiếng lòng với người ra đi, câu hỏi “có nhớ ta”, “có nhớ không” diễn tả tâm trạng băn khoăn của nhân dân. Đây cũng là lời nhắn nhủ trìu mến, mong những quân nhân không quên nghĩa tình sâu nặng nơi này.

Ngôn từ giản dị, mộc mạc cùng cách vào đề trực tiếp, không cầu kỳ của nhà thơ đã ghi ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên. Nhân vật trữ tình “ta” gợi khoảng thời gian mười lăm năm của đôi bên, cụm từ “thiết tha mặn nồng” khiến độc giả liên tưởng đến tình yêu đôi lứa sâu sắc.

Thực chất, đó là giai đoạn thành lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng chiến khu Việt Bắc và kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuyên suốt hành trình, đồng bào miền núi đã “đồng cam cộng khổ” với cán bộ, cùng nhau vượt qua bao chông gai.

Do đó, nghĩa tình quân dân ngày một bền chặt, câu thơ vì vậy chất chứa muôn vàn sự kiện mà chỉ những người trong cuộc mới thấu hiểu, nhớ nhung. 

Việt Bắc khắc hoạ tình quân dân đầy thắm thiết và nồng nàn
Việt Bắc khắc hoạ tình quân dân đầy thắm thiết và nồng nàn

Không chỉ nhắc về mặt thời gian, dân Việt Bắc còn gợi kỷ niệm về không gian thông qua câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Đây là cách diễn đạt hồn nhiên, không hoa mỹ nhưng vẫn đầy chất thơ, đậm tính nghệ thuật.

“Cây”, “núi”, “sông” là những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, thường được nhắc đến để bao quát một đất nước còn “nguồn” mang ý nghĩa trừu tượng, khéo léo nhắc người ra đi đừng quên hướng về cội nguồn.  

Phương pháp điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” nhấn mạnh thực tại chia ly buồn bã và niềm hy vọng da diết của người ở lại. Kết hợp với mạch thơ trôi chảy, vừa đề cập thời gian, không gian, đoạn thơ đã mở ra một chân trời tràn ngập kỷ niệm.

“Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Bốn câu thơ đầu là lời của nhân dân Việt Bắc, bốn câu thơ tiếp theo là lời cán bộ cách mạng. Bằng âm điệu thơ chậm rãi, sâu lắng, Tố Hữu đã khắc hoạ nỗi niềm người đi một cách chân thật.

Trước những câu hỏi mà người ở lại đặt ra, cán bộ không trả lời mà chỉ bày tỏ sự xúc động thông qua cử chỉ, điệu bộ đầy lưu luyến. Tác giả sử dụng hai từ láy là “bâng khuâng”, “bồn chồn” để miêu tả tâm trạng bịn rịn của họ.

Lắng nghe tiếng nói tha thiết bên cồn, họ không tài nào dứt khoát cất bước. Nỗi bối rối khiến bước chân họ ngập ngừng, chỉ sợ phải xa rời Việt Bắc, xa rời những kỷ niệm chất đầy trong mười lăm năm kề vai sát cánh.

Giữa khung cảnh núi rừng bao la, hình ảnh chiếc “áo chàm” gần gũi hiện lên. Đây là loại áo nhuộm chàm quen thuộc của người dân tộc thiểu số Việt Bắc, ngầm nhắc đến việc con người nơi đây chân chất, giản dị nhưng hiền hoà, ấm áp.

Nhịp thơ lục bát đều đặn, nhịp nhàng bỗng biến thành nhịp lẻ 3/3/2 với câu “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Câu thơ tạo ra khoảng lặng yên tĩnh song ngập tràn cảm xúc, nỗi bâng khuâng như choán lấy trái tim người cán bộ.

Với lối đáp giao duyên quen thuộc trong ca dao Việt Nam, từ ngữ mộc mạc và đại từ nhân xưng độc đáo, Tố Hữu đã thành công thể hiện sự quyến luyến giữa kẻ đi, người ở.

Qua đó, thi hào ca ngợi tình quân dân thắm thiết giữa người dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Mối quan hệ “tuy hai mà một” đã gắn bó không chỉ trong khoảng thời gian kháng chiến mà còn kéo dài trong tâm trí song phương đến cuối đời.

Những kỷ niệm về mảnh đất và con người Việt Bắc

Đi qua phân cảnh biệt ly, Tố Hữu đưa độc giả quay về với những ký ức chan chứa tình quân dân nơi chiến khu. Mỗi cặp lục bát trong mười hai câu thơ tiếp theo lần lượt gợi nhắc về một kỷ niệm giữa “mình”, người cán bộ và “ta”, đồng bào Việt Bắc.

Đặc biệt, các câu lục trong đoạn thơ là những câu hỏi tu từ liên tục xuất hiện như nhắc người ra đi về mảnh đất, con người nơi đây. Điệp ngữ “có nhớ” tạo nên âm điệu thơ tha thiết, để lại cảm xúc lắng đọng trong lòng người đọc.

Hai tiếng “mình đi”, “mình về” luân phiên, giao hoán cho nhau, đây là cách diễn đạt sinh động, gợi cảnh tiễn đưa bùi ngùi khi hình ảnh người cán bộ mờ dần song tiếng hát và nỗi nhớ vẫn lặng lẽ đi theo bước chân họ.

Những câu hát trong đoạn thơ tạo thành hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng, vẽ nên từng kỷ niệm thấm đẫm ân tình. Khoảng thời gian đằng đẵng không chỉ có khoảnh khắc nhọc nhằn chống giặc mà còn chất chứa nhiều phân cảnh nồng nàn.

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”

Hình ảnh mưa lũ trắng xóa, mây mù phủ núi rừng tượng trưng cho sự khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên Việt Bắc. Ngoài ra, đây cũng là phép ẩn dụ chỉ những gian khổ mà quân dân Việt Nam phải trải qua trong năm tháng máu lửa.

“Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

Ở chiến khu ấy, người cán bộ và đồng bào không có cơm ngon, áo đẹp, chỉ có “miếng cơm chấm muối”. Sự thiếu thốn, khó khăn mà họ cùng chịu đựng đã trở thành những kỷ niệm khó phai.

Gian khổ không thể ngăn tinh thần chống giặc mãnh liệt của cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc
Gian khổ không thể ngăn tinh thần chống giặc mãnh liệt của cán bộ cách mạng và người dân Việt Bắc

Dẫu mệt mỏi, cực nhọc nhưng họ chưa bao giờ quên đi “mối thù nặng vai”. Chính sự căm phẫn với giặc Pháp đã nuôi dưỡng ý chí chiến đấu để giải phóng dân tộc, lập lại hòa bình cho quê hương, đất nước.

“Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.”

Trong hai câu thơ này, Tố Hữu sử dụng biện pháp nhân hoá “rừng núi nhớ ai” và đại từ phiếm chỉ “ai” để gợi tâm trạng man mác. “Trám bùi”, “măng mai” là nguồn lương thực ở Việt Bắc, chúng đã nuôi bộ đội đánh giặc suốt những ngày tháng gian khổ.

Hương vị rừng núi tượng trưng cho mối tình quân dân sâu đậm, đồng thời gợi nỗi cô đơn, thương nhớ. Giờ đây, khi cán bộ sắp trở về thị thành, “trám bùi” và “măng mai” cũng “rụng” dần, “già” đi vì không còn người san sẻ cùng nhân dân Việt Bắc.

“Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Hai câu thơ này sở hữu hình ảnh tượng trưng tương phản mà đặc sắc, “những nhà” ám chỉ đồng bào Việt Bắc còn “hắt hiu lau xám” là cảnh núi rừng hoang vu, vắng lặng, biểu thị cho sự nghèo nàn, thiếu thốn.

Tuy không dư dả vật chất song người dân nơi đây “đậm đà lòng son”, một lòng chung thuỷ với cách mạng. Qua đó, Tố Hữu ca ngợi nét đẹp tâm hồn, tình yêu nước sâu đậm của người Việt Bắc bằng điệu thơ trữ tình, đậm đà tính dân tộc.

“Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”

Xuyên suốt bài thơ, Tố Hữu sử dụng đại từ “mình”, “ta” để ám chỉ hai đối tượng quân nhân và nhân dân. Tuy nhiên, trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” thì tác giả lại lược bỏ từ “ta”.

Lúc này, từ “mình” đại diện cho cả hai nhân vật trữ tình, hai từ “mình” đầu tiên là cán bộ cách mạng còn từ “mình” thứ ba là người Việt Bắc. Đối với nhà thơ, quân dân tuy hai mà một, gắn liền tựa thể thống nhất. 

Khép lại những dòng thơ về chiến khu, Tố Hữu liệt kê hàng loạt địa danh, hình ảnh mang dấu ấn lịch sử là Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Từ đoạn thơ, độc giả cảm nhận tình cảm sâu nặng đã hoá thành vô vàn vần thơ lai láng nghĩa tình. 

Nỗi nhớ Việt Bắc trải dài trên trang giấy

Mười lăm năm trôi qua với đầy ắp khoảnh khắc, cán bộ lẫn người dân đều ghi nhớ từng kỷ niệm. Người đi không đặng lòng nên cất lời khẳng định tình cảm nhớ thương tha thiết, không bao giờ đổi thay.

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Cách ngắt nhịp 3/3 và phép đảo ở câu lục nhấn mạnh mối quan hệ gắn bó của quân nhân, đồng thời tạo âm hưởng ca dao ngọt ngào, sâu lắng. Từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” thể hiện tấm lòng thuỷ chung của đồng bào Việt Bắc, dẫu trước hay sau thì họ vẫn mãi yêu thương cán bộ.

Với phép so sánh, tăng tiến trong câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” và dấu chấm lửng cuối câu, Tố Hữu tô đậm tình yêu son sắt, tâm trạng bùi ngùi mà những người lính, người dân dành cho nhau.

Những kỷ niệm nơi chiến khu Việt Bắc sẽ tồn tại mãi trong tim người lính và nhân dân
Những kỷ niệm nơi chiến khu Việt Bắc sẽ tồn tại mãi trong tim người lính và nhân dân

Giữa muôn trùng nỗi nhớ, hình ảnh Việt Bắc hiện lên trong tâm trí người cán bộ. Khoảng thời gian chia sẻ ngọt bùi cùng đồng bào miền núi không chỉ tồn tại ở chặng đường mười lăm năm ấy mà dường như sẽ đi theo cả đời.

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”

Tác giả xem nỗi nhớ người đồng bào như nỗi nhớ của những cặp đôi đang yêu, nó dịu dàng nhưng cũng cuồn cuộn tựa sóng trào. Cách ví von duyên dáng với thể thơ lục bát uyển chuyển đã mang đến cho hồn thơ Việt Bắc nét tha thiết, đậm đà.

Người cán bộ nhớ ánh trăng treo đầu núi nơi chiến khu, nhớ ánh nắng chiều trải trên nương. Những bản làng đầy khói sương cũng hiện lên trong đầu, gợi nhớ bao khổ nhọc mà người dân gánh chịu khi làm hậu phương, chăm lo từng bữa cơm cho họ.

“Nhớ từng rừng núi bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”

Rừng nứa, bờ tre là cảnh vật quen thuộc nơi làng quê Việt Nam, nó được đưa vào thơ của nhiều thi sĩ để khắc họa nét đẹp đất Việt. Với nhà thơ yêu đất nước, thiên nhiên như Tố Hữu thì ông không thể bỏ qua hình ảnh này khi nhớ tới Việt Bắc.

Bên cạnh trăng, nương, tre, nứa, chiến sĩ cách mạng còn nhớ các địa danh đã ghi lại thời kỳ gian khổ là ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê. Đi qua sóng gió, địa điểm, con người ở tâm bão bao năm ấy như in sâu vào trí óc người cán bộ, mãi không phai nhoà.

“Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”

Sở dĩ nỗi nhớ trải dài trên từng trang thơ Việt Bắc là vì quãng thời gian đồng hành chan chứa kỷ niệm. Tình quân dân phát triển từng ngày theo những lần “chia ngọt sẻ bùi”, đồng bào cưu mang cán bộ với tinh thần đùm bọc, không hề đoái công.

Các từ “đắng cay”, “ngọt bùi”, “thương nhau” và hàng loạt động từ như “chia”, “sẻ”, “cùng” có giá trị gợi cảm cao. Ở chiến khu không có món ăn xa xỉ, chỉ có củ sắn, bát cơm mà còn phải chia cho nhau.

Tuy vậy, họ không lấy làm bực dọc, buồn bã mà xem đó là tình yêu thương ấm áp, ngọt ngào. Hình ảnh “chăn sui đắp cùng” thể hiện sự gần gũi như người thân khi họ cùng ăn, cùng ngủ.

Người Việt Nam nổi tiếng với đức tính đoàn kết, khi gặp hoạn nạn thì không phân biệt địa vị, giai cấp mà một lòng gắn bó với nhau. Trong bài Đồng chí của Chính Hữu, nhà thơ cũng đề cập đến sự kết nối giữa người lính trong kháng chiến.

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ.”

Việc kề vai sát cánh, đối mặt với gian nan là thứ làm cho tình cảm nhân loại trở nên sâu nặng. Chính vì vậy, cả chiến sĩ cách mạng lẫn đồng bào Việt Bắc đều không thể quên khoảng thời gian mặn nồng này.

Bức tranh tứ bình đặc sắc trong tác phẩm

Việt Bắc bao gồm 150 câu, trong đó đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình được đánh giá là bộ phận hữu cơ của tác phẩm. Mười câu thơ nhịp nhàng ấy không chỉ xoay quanh nỗi nhớ chiến khu mà còn khắc hoạ nét đẹp thiên nhiên miền núi.

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”

Đến với đoạn thơ này, Tố Hữu thay đổi ý nghĩa của đại từ “mình”, “ta” khi gọi cán bộ cách mạng là “ta” còn người dân Việt Bắc là “mình”. Điệp từ “nhớ” bộc lộ niềm nhớ sâu sắc kết hợp với lối viết thơ linh hoạt, mang đậm âm hưởng ca dao đã gây ấn tượng lớn cho bạn đọc.

Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” không đòi hỏi hồi đáp mà chỉ là “chiếc cầu” nối sang câu dưới, là cái cớ bày tỏ tấm lòng. Dẫu họ trở về với thủ đô Hà Nội thì trái tim vẫn ấp ủ hình bóng “hoa cùng người”, tức thiên nhiên và nhân dân Việt Bắc.

Hai hình ảnh này hoà quyện với nhau, không thể tách rời và tạo nên bức tranh tứ bình sống động. Bốn mùa nơi chiến khu gắn liền với con người và trở thành ký ức đẹp đẽ trong tim người lính.

Tám câu thơ tiếp theo tràn ngập ánh sáng, màu sắc tươi tắn, cảnh và người kết hợp với nhau theo cấu trúc câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Bằng ngòi bút điêu luyện, nhà thơ mở ra một khung cảnh Việt Bắc bao la, hùng vĩ trước mắt độc giả.

Bốn mùa Việt Bắc hiện lên một cách đẹp đẽ và rực rỡ thông qua bức tranh tứ bình trong bài thơ
Bốn mùa Việt Bắc hiện lên một cách đẹp đẽ và rực rỡ thông qua bức tranh tứ bình trong bài thơ

Bộ tranh tứ bình hiện lên trong những thời điểm khác nhau của một ngày, sớm, trưa, chiều, tối và trong từng mùa gồm xuân, hạ, thu, đông. Thiên nhiên miền núi sống động, hữu tình đến nỗi người đi xa cứ say đắm khôn nguôi.

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng.”

Mùa đông Việt Bắc đẹp tựa bức tranh, giữa rừng xanh bừng lên màu “hoa chuối đỏ tươi”. Đây vốn dĩ là mùa lạnh nhất trong năm, đặc biệt với dân tộc sinh sống ở miền núi cao.

Tuy vậy, màu đỏ ấm nóng từ hoa chuối xua tan đi sự lạnh lẽo, ảm đạm và đem lại sức sống mới đầy rạng rỡ. Trên đèo cao, ánh nắng ban ngày soi sáng hình bóng nhân dân Việt Bắc miệt mài lao động.

Hình ảnh “dao gài thắt lưng” mang tính tạo hình, thể hiện nét đẹp siêng năng, cần cù của người đồng bào. Mặc dù trời vào đông, họ vẫn cần mẫn trèo đèo, làm lụng, ánh dương như ca ngợi đức tính của họ.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Đông qua, xuân tới, khu rừng lại được khoác lên một tấm áo mới. Trái với “chiếc áo” đỏ tươi vào mùa đông, ngày xuân Việt Bắc đẹp nhẹ nhàng, huyền ảo với hoa mơ. 

Cụm từ “nở trắng rừng” nhấn mạnh hoa mơ tràn ngập trên xứ sở Việt Bắc, tạo nên khung cảnh mát mẻ, mang lại cảm giác êm đềm cho người đọc. Nối tiếp câu lục là câu bát tán dương sự chăm chỉ của người dân khi họ tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”.

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.”

Hè về, tiếng ve kêu râm ran đặc trưng bao phủ khu rừng, đây là khoảnh khắc “rừng phách” mang màu vàng rực rỡ, lộng lẫy. Động từ “đổ” mô tả trạng thái biến đổi bất ngờ, kỳ diệu của thiên nhiên, sự thay đổi sinh động ấy đã đi vào lòng cán bộ.

Một lần nữa, bóng dáng nhân dân Việt Bắc lại điểm xuyết giữa thiên nhiên rộng lớn bằng vẻ đẹp lao động. Những cô gái đang tuổi xuân thì chịu thương, chịu khó hái măng một mình, không nề hà sự cô đơn hay khổ cực.

“Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”

Trên bầu trời mùa thu, ánh trăng vời vợi, trong sáng soi khắp cánh rừng tạo nên khung cảnh thơ mộng. Cuộc chiến kéo dài không bào mòn ý chí người quân nhân mà càng làm mong ước hoà bình của họ sục sôi.

Tiếng hát người Việt Bắc chứa chan tình cảm, văng vẳng bên tai cán bộ cách mạng. Người đi không thể quên cảnh vật miền núi, càng chẳng thể xoá mờ giọng hát ngọt ngào, ân tình của kẻ ở lại.

Trong bức tranh tứ bình, Tố Hữu đã sử dụng những gam màu độc đáo, tôn lên vẻ đẹp đặc sắc của Việt Bắc. Hài hoà với thiên nhiên là hình ảnh con người lao động cần cù, quyết tâm làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.

Việt Bắc và cuộc kháng chiến hào hùng

Tập thơ Việt Bắc không chỉ diễn tả nỗi nhớ nhung của chiến sĩ cách mạng mà còn ghi lại cuộc chiến chống giặc hào hùng. Bên cạnh đó, Tố Hữu cũng nhắc đến chiến thắng vẻ vang và niềm vui lan rộng của nhân dân Việt Nam.

“Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng.

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”

Câu hỏi với đại từ phiếm chỉ “ai” không hỏi riêng đối tượng nào mà dành cho tất cả đồng bào Việt Nam. Câu thơ gợi nhiều lưu luyến, bâng khuâng, đậm đà tình nghĩa, theo sau đó là lời giải đáp dạt dào yêu thương.

Từ “nhớ” xuất hiện sáu lần cho thấy nỗi nhớ bao trùm khắp không gian, người cán bộ nhớ đèo, nhớ sông, nhớ phố, nhớ những địa danh in dấu bước chân anh hùng. Ở trận Phủ Thông, đèo Giàng, anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm đã làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía.

Tuy không giành thắng lợi hoàn toàn song hai trận đánh này đã động viên lực lượng vũ trang vào giai đoạn đầu kháng chiến, đánh bại âm mưu phá hoại của thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc.

Từng chiến công oanh liệt khi hiện lên trên trang giấy tựa ký sự chiến trường nối tiếp nhau. Tố Hữu tự hào vì đồng bào Việt Nam đã chịu cảnh máu đổ xương rơi để đưa tên sông núi đi vào lịch sử.

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”

Sau khi nhắc đến những trận chiến huy hoàng, nhà thơ tái hiện bầu không khí lịch sử khi cả nước đồng lòng đánh giặc. Đến đây, giọng thơ đột ngột thay đổi, không còn sâu lắng, tha thiết mà dồn dập, mạnh mẽ.

Khúc ca khải hoàn vang vọng trên từng trang giấy của tác phẩm
Khúc ca khải hoàn vang vọng trên từng trang giấy của tác phẩm

Đi cùng với âm điệu đó là hàng loạt động từ mạnh, tính từ gợi tả tạo nên khung cảnh tiến công như vũ bão. Khắp mọi nẻo đường Việt Bắc, người lính hành quân “rầm rập”, phép so sánh, nói quá “như là đất rung” thể hiện khí thế hừng hực, trào sôi.

“Điệp điệp”, “trùng trùng” cho thấy sự đoàn kết, ý chí quyết tâm của dân tộc ta. Ý chí đó mãnh liệt đến nỗi làm rung chuyển cả trời đất, không một thế lực nào ngăn cản được. 

Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” vừa mang nét hiện thực, vừa có phần mộng ảo khi kết hợp ánh sao dịu dàng với nòng súng dữ dội. Ánh sáng từ vô vàn vì sao ấy như thắp lên niềm tin, soi sáng lý tưởng cách mạng và dẫn lối chiến sĩ.

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”

Ngoài quân lính, dân công cũng không ngại xông pha chiến trận, bước chân của họ mạnh đến mức đá như nát ra, tàn lửa từ đuốc bay khắp nơi. Đây là phép nói quá nhằm mô tả tinh thần chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Nhân dân càng đánh càng thắng, lực lượng kháng chiến vì vậy mà ngày càng hùng hậu. Họ đi xuyên qua màn đêm phủ sương dày, sử dụng ngọn đèn pha phá tan lớp sương.

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày

Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.” 

Trong hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn, đồng bào Việt Nam vẫn lạc quan và tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Nhờ niềm tin đó mà kháng chiến mới thành công rực rỡ bất chấp sự hiện đại, tân tiến về vũ khí của giặc thù.

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

Đáp lại tinh thần kháng chiến của nhân dân là khúc ca khải hoàn vang khắp mọi miền đất nước. Tâm trạng hồ hởi của Tố Hữu được thể hiện rõ trong bốn câu thơ, tác giả diễn tả niềm vui giòn giã với cấu trúc câu “vui về… vui từ… vui lên”.

Điệp từ “vui” như tiếng reo mừng chiến thắng, nhà thơ còn liệt kê các địa danh thể hiện tình yêu với thiên nhiên và niềm tự hào dân tộc. Nhịp thơ dồn dập, gấp gáp với âm hưởng hào hùng tạo thành bài ca chiến thắng của toàn thể người dân Việt Nam.

Kiệt tác Việt Bắc sống mãi với dân tộc Việt

Ra đời trong bối cảnh lịch sử trọng đại, Việt Bắc chứa đựng tình yêu quân dân, tình yêu thiên nhiên và tấm lòng trung thành với đất nước. Tác phẩm không chỉ bộc lộ nỗi nhớ cán bộ dành cho người dân miền núi mà còn tái hiện lịch sử dân tộc.

Những kỷ niệm gian khổ mà ngọt ngào cũng gắn liền với chuỗi chiến công oanh liệt. Từ ý chí chống giặc, tinh thần lạc quan, đồng bào ta đã thành công chống lại thế lực ngoại xâm hùng mạnh.

Nhờ đó, niềm tin về một tương lai tươi đẹp, một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc lại bừng cháy. Tố Hữu xem cột mốc này là bước ngoặt mở ra thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam, Việt Bắc vì vậy mà đong đầy sự tự hào.

Trên thi đàn Việt, đã có nhiều tác giả lấy lòng yêu nước làm chủ đề để sáng tác thơ. Thế nhưng, thi phẩm này vẫn nổi bật giữa “rừng thơ” nhờ tài năng và tình cảm dồi dào của tác giả.

Bằng thể thơ lục bát gần gũi, ngôn từ linh hoạt, âm điệu thơ khi dịu dàng, lúc hồ hởi, Tố Hữu đã mang lại một Việt Bắc sinh động. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, hồn thơ người đàn ông được mệnh danh là “lá cờ đầu cách mạng” và nhịp điệu đặc sắc trong bài thơ này vẫn làm trái tim bao độc giả rung động.