Hồ Xuân Hương là một trong những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam, với tư tưởng mới mẻ và lối làm thơ phá cách, các tác phẩm của bà đã đem lại nhiều giá trị về việc nghiên cứu cho giới phê bình.
Mặc dù sự nghiệp văn chương rất thành công nhưng Hồ Xuân Hương lại phải trải qua một cuộc đời nhiều bất hạnh, chính những nỗi đau ấy đã giúp cho tác giả đạt được thành tựu to lớn trên con đường sáng tác thi ca của mình.
Vài nét về thân thế và cuộc đời của tài nữ họ Hồ
Bà sinh năm 1772 tại Thăng Long có nguyên danh Hồ Phi Mai với biểu tự Xuân Hương, trong cuốn Giai nhân dị mặc chép rằng nhà thơ là con gái của Sinh đồ Hồ Phi Diễn, quê ở Nghệ An.
Năm mười ba tuổi, sau khi thân phụ mất thì Hồ Xuân Hương theo mẹ về làng Thọ Xương đi học rồi ở nhà giúp việc. Bà có một tuổi thơ êm đềm ở dinh thự Cổ Nguyệt đường ven hồ Tây, khi ấy là nơi xa hoa bậc nhất Đàng Ngoài.
Mẹ bà đã tái hôn với người khác sau khi mãn tang chồng, mặc dù sống trong ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến nhưng Hồ Xuân Hương vẫn có được tư chất thông minh và hiếu học, điều này được bộc lộ ở khả năng sáng tác tuyệt vời của bản thân.
Thơ Hồ Xuân Hương được đánh giá cao với nét thanh thanh tục tục đặc sắc, những tác phẩm của bà đã đóng góp rất nhiều trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật cũng như là thể hiện những tư tưởng tiến bộ vượt khỏi khuôn khổ thời đại bấy giờ.
Hồ Xuân Hương có tập Lưu hương ký nổi tiếng với nhiều bài thơ khác được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Sau này bà tập trung sáng tác với chữ Nôm và tính đến nay, thi sĩ đã để lại cho đời hơn 150 tác phẩm có giá trị.
Ðề tựa cho thi tập Lưu hương ký được phát hiện năm 1964, nhà phê bình Tốn Phong viết:
“Tứ thơ dồi dào nhưng vẫn tỏ ra vui mà không buông tuồng; buồn mà không đau thương; khốn khổ mà không lo phiền; cùng mà không bức bách. Thật là do tính tình nghiêm chỉnh mà ra. Cho nên, khi hát lên, ngâm lên những lời thơ ấy, thì tay cứ muốn múa, châm cứ muốn dậm mà không tự biết.
Lưu hương ký tuy đầy vẻ gió, mây, trăng, móc, nhưng đều tự đáy lòng mà phát ra, biểu hiện thành lời nói, lại cũng đều đúng với cái ý trên kia là xuất phát từ mối tình mà biết dừng lại trên ân nghĩa.”
Bên cạnh đó còn có nhiều giai thoại truyền miệng về lối sống phong lưu của Hồ Xuân Hương rằng bà là một nữ tử tài sắc vẹn toàn cùng những mối tình bên thơ rượu với Phạm Đình Hổ, Phạm Thái, Phạm Quý Thích, Trần Ngọc Quán và Nguyễn Du.
Theo các nhà nghiên cứu, bà mất năm 1822 tại Hà Nội, mặc dù đã tìm kiếm nhiều năm nhưng cho đến nay, ngôi mộ của Hồ Xuân Hương ở đâu và những bí ẩn xoay quanh cuộc đời nhà thơ vẫn là dấu hỏi lớn trong lòng hậu thế.
Những bất hạnh trong tình duyên đã giúp Hồ Xuân Hương trở thành nhà thơ phụ nữ
Bi kịch của Hồ Xuân Hương bắt đầu khi bà làm lẽ Tổng Cóc, một cường hào có tính ăn chơi và tiêu xài hoang phí nên chẳng bao lâu thì nhà cửa sa sút và cộng thêm việc vợ cả ghen vì ông yêu quý tài nghệ của Hồ Xuân Hương nên bà bỏ đi biệt, chỉ để lại một lá thư từ giã.
Sau khi bỏ nhà đi, bà hạ sinh một người con gái nhưng được ba tháng thì chết yểu, Tổng Cóc có tìm đến đòi con nhưng vô vọng. Bà làm bài thơ Khóc Tổng Cóc gửi ông để khóc cho mối tình cũ của mình, hai người xem như đoạn tuyệt tình nghĩa phu thê.
“Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi,
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé,
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.“– Khóc Tổng Cóc
Sau này bà tiến đến với ông Phủ Vĩnh Tường, tức là Tú tài Phạm Viết Ngạn và sinh cho ông một đứa con tên Phạm Viết Thiệu, thế nhưng hơn hai năm sau thì người chồng này của Hồ Xuân Hương cũng tạ thế.
Hai lần mất chồng đã khiến Hồ Xuân Hương thấm thía nỗi đau của những người phụ nữ phải chịu cảnh cô đơn nên khi nghe tiếng khóc từ bà lang, nhà thơ viết ra nhiều câu thơ thể hiện nỗi xót xa và đồng cảm sâu sắc.
“Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,
Thương chồng nên nõi khóc tì ti.
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo,
Cay đắng chàng ơi vị quế chi.
Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Quy thân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ,
Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.”– Bỡn bà lang khóc chồng
Có những nhà thơ trung đại lên tiếng bênh vực người phụ nữ như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn nhưng họ không chân thực bằng Hồ Xuân Hương. Bởi bà đã trải qua nhiều bi kịch trong cuộc đời, nỗi đau đớn ấy đều lắng đọng trên trang thơ sắc sảo của Hồ Xuân Hương mà không ai có thể thay thế được.
Nhà thơ từng trải qua hai lần làm lẽ nên bà thấu hiểu được cảm giác của những người phụ nữ cùng cảnh ngộ. Trong bài Lấy chồng chung, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rất rõ nỗi niềm chua xót ấy, đồng thời bà cũng lên án chế độ đa thê của xã hội phong kiến.
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.
Năm chừng mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng,
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Nỗi này ví biết dường này nhỉ,
Thời trước thôi đành ở vậy xong.”– Lấy chồng chung
Theo Hồ Xuân Hương thì việc làm lẽ là vô cùng tệ bạc và bất công đối với người phụ nữ. Bà đã kể ra những nỗi khổ khi làm lẽ và cho rằng đó như làm mướn không công cho thấy sự bi phẫn tột độ, kịch liệt lên án chế độ hôn nhân thời ấy.
Xã hội phong kiến hà khắc khiến cho người phụ nữ phải luôn chịu đủ mọi thiệt thòi, họ quan niệm rằng đàn bà chưa chồng mà có con như phạm đại tội, bị cạo đầu bôi vôi suốt đời không xuất giá, thậm chí là phải chết.
Vậy mà đối với Hồ Xuân Hương, bà không những không lên án mà còn cất tiếng nói bênh vực họ. Bởi lẽ nhà thơ nhìn thấy được vẻ đẹp thật sự của những người phụ nữ ấy, đó là thiên chức của người mẹ không thể bỏ con mình.
“Không chồng mới chửa ấy mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian sự thường.”– Không chồng mà chửa
Mặc dù người phụ nữ phải chịu nhiều bất công và đau khổ như vậy nhưng họ vẫn giữ được sự hiền dịu và nhu mì vốn có của mình. Nhà thơ đã mượn hình ảnh bánh trôi nước để miêu tả vẻ đẹp ngoại hình lẫn phẩm chất của người phụ nữ.
Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, Hồ Xuân Hương đã sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện để thể hiện sự thông cảm và niềm tự hào đối với vẻ đẹp và tính cách của người phụ nữ Việt Nam.
Bà đã để lại nhiều bài thơ có giá trị nghiên cứu ở cả nội dung lẫn nghệ thuật nhờ tài năng và những bất hạnh trong cuộc đời mình. Qua nhiều tác phẩm giàu tính nhân đạo ấy, Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ trong văn học trung đại Việt Nam.
Hồ Xuân Hương được suy tôn là bà chúa thơ Nôm
Thơ Hồ Xuân Hương thường được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, thủ pháp vô cùng điêu luyện nhưng chữ Nôm lại có nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Bà được Xuân Diệu suy tôn là bà chúa thơ Nôm bởi những tác phẩm xuất sắc và tư tưởng mới mẻ của mình.
Hồ Xuân Hương được xem là nhà thơ người kế thừa và phát huy tinh hoa của văn học dân gian một cách triệt để, điển hình nhất là ở hai câu thực trong bài Không chồng mà chửa.
“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.”– Không chồng mà chửa
Nhà thơ đã mượn nghệ thuật chơi chữ với các chiết tự Hán làm cho câu thơ trở nên đa nghĩa, góp phần thể hiện nội dung trữ tình đặc sắc.
Bên cạnh đó, thơ của Hồ Xuân Hương còn được các nhà phê bình nước ngoài đánh giá cao ở đặc sắc nghệ thuật đố thanh giảng tục để lên án xã hội phong kiến.
“Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?“– Vịnh cái quạt I
Nhà thơ đã mượn hình ảnh cái quạt để ca ngợi vẻ đẹp người thiếu nữ và miêu tả khát vọng phàm tục của những người đàn ông, bà không xem họ là hiền nhân quân tử chuẩn mực của xã hội mà chỉ đơn giản là kẻ phàm phu tục tử cũng có ham muốn trước cái đẹp.
Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ trào phúng khi bà cất tiếng cười khinh bỉ lên các tầng lớp thống trị bấy giờ. Bọn vua chúa quyền lực suy cho cùng thì cũng chỉ là những kẻ háo sắc, thích trêu hoa ghẹo nguyệt và xem phụ nữ là trò tiêu khiển của mình.
“Càng nực bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chẳng chán lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.”– Vịnh cái quạt
Hồ Xuân Hương còn là một trong những nhà thơ có công trong việc Việt hóa thể thơ Đường luật vì bà không tuân theo hệ thống ước lệ của thơ cổ mà đột phá theo cách riêng của mình.
Khi tìm đến bài Tự tình II thì sẽ bắt gặp được những từ ngữ vô cùng bình dị, khác xa với ngôn từ uyên bác mà thơ Đường quy định, nó có sức gợi hình độc đáo và mới mẻ.
Có lẽ vì vậy mà khi bàn về Hồ Xuân Hương, nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra nhận định:
“Lòng Xuân Hương có lửa, tay Xuân Hương có điện, nên các chữ đều sống cả lên, nó có thể bò lổm ngổm, có thể mấp máy, có thể bay, có thể duỗi, có thể khom khom, ngửa ngửa, nó có thể chũm chọe, hi ha, cốc om, khua, vỗ, nó có thể um, xoe, xóe, loét, rì; nó có thể nối nhau thành chuỗi vần vang động: bom, chòm, om, mòm, tom, hoặc ọp ẹp: heo, leo, kheo, teo, lèo; chúng ta có thể đố ai tìm được trong thơ Hồ Xuân Hương những chữ nào mà âm thanh bẹp dí, những chữ chết nào đứng trơ không cựa quậy ở trong câu.
Đây không phải là kỹ thuật đâu! Đấy là tâm hồn truyền sức sống cho ngôn ngữ.”
Hồ Xuân Hương thực sự là một tài năng thi ca xuất chúng của thời đại, bà không chỉ có những tư tưởng vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến mà còn phá cách trong lối làm thơ.
Những điểm độc đáo và mới mẻ trong thơ Hồ Xuân Hương không những giúp cho văn đàn Việt Nam trở nên phong phú mà còn góp phần vào việc nghiên cứu của các nhà phê bình. Hồ Xuân Hương thực sự xứng danh bà chúa thơ Nôm của Việt Nam.
Ngàn thu vẫn lưu danh hậu thế
Hồ Xuân Hương còn là một nhân vật vô cùng bí ẩn, có những câu hỏi xoay quanh cuộc đời của bà qua nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu vẫn chưa tìm ra được kết quả chính xác. Có giai thoại cho rằng Hồ Xuân Hương từng là tình nhân của đại thi hào Nguyễn Du qua bài thơ mà bà viết như sau:
“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương đeo mái,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng trong.”
Bài thơ có lời đề từ là gửi Hầu Nghi Xuân Tiên Điền Nhân tức là Nguyễn Du, theo các nhà phân tích thì họ có mối tình kéo dài đến ba năm nhưng đó cũng chỉ giả thiết. Bởi câu chuyện của họ không có sách vở nào ghi chép và nó đã trôi qua hàng trăm năm khiến cho việc tìm kiếm vô cùng khó khăn.
Dẫu vậy thì Hồ Xuân Hương vẫn là một nhà thơ lớncủa nữ quyền thời phong kiến trong văn học trung đại Việt Nam. Sự sáng tạo trong phong cách thơ ca đã giúp Hồ Xuân Hương được tôn bà chúa thơ Nôm của dân tộc Việt.
Những tác phẩm của bà có những đóng góp rất lớn cho việc nghiên cứu, các bài thơ được đưa vào chương trình Ngữ văn để bạn đọc có thể cảm nhận những cái hay cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ và nội dung giàu tính nhân đạo, từ đó sẽ tự hào về một thời đại từng có Hồ Xuân Hương tài năng như thế!
Thúy Trân
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất