Mưa xuân II – Tình xuân và vẻ đẹp tươi tắn của mùa xuân

Nguyễn Bính được biết đến như một cây bút nổi tiếng và có sức sáng tạo dồi dào của phong trào Thơ Mới. Phảng phất trong từng vần thơ, câu chữ ông viết ra là bóng hình làng quê cùng con người Việt Nam với những hàng cau, rặng mồng tơi hay làn mưa xuân.

Một trong những áng thi ca tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo ấy là Mưa xuân II. Nó không chỉ khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên, đất trời vào buổi chiều mưa xuân mà còn thể hiện cả tấm lòng sắc son với quê hương của nhà thơ.

Mưa xuân II
Mưa xuân II – Tình xuân và vẻ đẹp tươi tắn của mùa xuân

Thi sĩ của đồng quê Nguyễn Bính và tác phẩm Mưa xuân II

Nguyễn Bính có tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, sinh năm 1918 trong một gia đình trí thức tại tỉnh Nam Định. Thế nhưng, tuổi thơ thi sĩ lại không mấy trọn vẹn, thiếu vắng tình thương cùng sự che chở từ mẹ khi ông chỉ mới tròn ba tháng tuổi.

Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người thông minh và hiếu học, có niềm đam mê nhiệt huyết với thơ. Năm vừa tròn mười ba tuổi, Nguyễn Bính đạt giải Nhất trong cuộc thi hát trống quân xuân ở hội làng.

“Nguyễn Bính có thiên bẩm thi nhân từ thuở nhỏ. Sống ở miền quê từ thuở nhỏ, nhà nghèo, ít học, nhưng làm thơ lục bát rất hay, truyền cảm hứng mãnh liệt và phổ biến sâu rộng nhất trong dân thị thành cũng như nông thôn.” – Tác giả Thế Phong nhận xét về tài năng thơ ca của Nguyễn Bính trong cuốn Lược sử văn nghệ Việt Nam nhà văn tiền chiến 1930 – 1945

Nó đã trở thành bước đệm quan trọng, mang ông đến gần hơn thế giới của nghệ thuật và thi ca. Nguyễn Bính có cơ hội được tiếp xúc với cả văn học Pháp, tuy nhiên trong nhiều sáng tác sau này, bóng hình ca dao truyền thống dân tộc vẫn nổi bật hơn cả.

Thi phẩm đầu tiên được đăng báo của Nguyễn Bính là Cô hái mơ. Vào năm 1937, ông cũng cho ra đời tập thơ Tâm hồn tôi và ngay lập tức đạt giải khuyến khích trong một cuộc thi tổ chức bởi nhóm Tự lực văn đoàn.

Giữa lúc phần lớn thi sĩ theo đuổi sự cách tân mới mẻ bắt nguồn từ phương Tây, Nguyễn Bính vẫn đắm say thể thơ lục bát ba chìm bảy nổi. Thế giới nghệ thuật của ông là những câu thơ, hình ảnh chứa đựng giá trị văn hóa truyền thống sâu sắc.

Sự khác biệt ấy đã khiến các thi phẩm của ông để lại dấu ấn khó phai mờ trong cảm nhận giới phê bình lẫn độc giả. Không viết ra những lời thơ độc đáo đậm nét Tây hóa như Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính vẫn miệt mài theo đuổi câu hò, điệu nói thân thương.

“Thơ Nguyễn Bính có cái thi pháp trời cho những bậc thiên tài có tên gọi là tự nhiên như thở.” – Nhà thơ Nguyễn Duy nói về tài năng vận dụng thể thơ lục bát của Nguyễn Bính

Chỉ ở thể thơ lục bát, ông mới bộc lộ được một cách đầy đủ và rõ nét nhất tài năng cùng tấm lòng đối với làng quê. Nghệ sĩ đã tận dụng tối mảnh đất thơ ca dân gian, mang đến cho độc giả những tác phẩm vừa lạ lẫm nhưng cũng rất mực thân quen.

Vẻ đẹp tươi tắn và căng tràn sức sống trong Mưa xuân II

Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ mang đậm cốt cách làng quê Việt Nam của tác giả là Tương tư, Lỡ bước sang ngang, Qua nhà, Chân quê, Mười hai bến nước, Mưa xuân I hay Mưa xuân II. Ở bất kỳ áng thi ca nào, ông cũng đều đặt cả tâm hồn cùng sự nhiệt huyết vào trong từng câu chữ.

Nếu như ở Mưa xuân I, Nguyễn Bính miêu tả câu chuyện tình cảm đôi lứa dang dở buồn man mác thì sang Mưa xuân II, ngòi bút ông vẽ nên một bức tranh làng quê đẹp đẽ khi mùa xuân đến. Lần giở từng trang viết, độc giả như được hòa mình vào tác phẩm, cảm nhận một cách chân thật sức sống mạnh mẽ của muôn loài.

Thi sĩ đặc biệt yêu quý và dành phần lớn sáng tác để viết về mùa xuân. Dường như chính sức sống của nó đã mang đến cho thơ ca ông một nguồn sinh lực mới, khiến từng câu chữ viết ra đều đẹp đẽ lạ thường.

“Tháng Giêng vừa Tết đầu xuân
Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam
Mưa xuân rắc bụi quanh làng
Bà già sắm sửa hành trang đi chùa.” – Mùa xuân trong thi phẩm Cây đàn tỳ bà

Thi sĩ còn nhiều lần miêu tả làn mưa xuân, thứ được ví như “đặc sản” không thể thiếu của thiên nhiên đất Bắc. Đây cũng chính là lý do mỗi khi thưởng thức thơ Nguyễn Bính, người ta luôn cảm thấy bâng khuâng, thổn thức về bầu không khí se lạnh đầy hơi nước.

Mưa xuân II cũng không phải là ngoại lệ khi mở đầu tác phẩm, thi sĩ đã mở ra không gian chiều xuân réo rắt tiếng mưa rơi. Nhà thơ kết hợp vô cùng khéo léo và tinh tế hình ảnh cùng âm thanh, tạo nên một khung cảnh sinh động, giàu khoáng đạt.

“Chiều ấm mùi hương thoảng gió đưa

Tà tà mưa bụi rắc thưa thưa.” – Mưa xuân II

Chính làn mưa báo hiệu mùa xuân sắp sửa gõ cửa ấy đã tưới mát, khiến cho cảnh vật bừng tỉnh sức sống sau giấc ngủ đông dài. Không chỉ vậy, nó còn len lỏi vào tâm hồn người thưởng thức, xoa dịu những bề bộn và muộn phiền trong năm cũ.

Tài năng thi ca thiên bẩm đã song hành cùng tâm hồn, tài quan sát tinh tế của Nguyễn Bính để tạo nên những vần thơ đẹp đẽ về cảnh vật trước thềm năm mới. Làn mưa xuân kia không hề dữ dội mà ngược lại, vô cùng nhỏ nhẹ và dịu dàng, tưới thêm nhựa sống cho đất trời, thiên nhiên.

Ở trong khung cảnh mưa xuân ấy, thi sĩ còn miêu tả cả sự thức tỉnh, sinh sôi của cảnh vật. Cây cối xung quanh bắt đầu trỗi dậy, thi nhau mang đến cho đời những nụ hoa ngập tràn sắc hương.

“Cây cam cây quýt cành giao phối

Lá ngửa lòng tay hoa đón mưa.” – Mưa xuân II

Bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã lột tả được sức sống mãnh liệt, mơn mởn của cảnh vật xung quanh. Chúng dường như cũng có tâm hồn và cảm xúc riêng, vui mừng háo hức tắm mình trong từng giọt mưa mát lạnh.

Trong thi phẩm Mưa xuân II, Nguyễn Bính không sử dụng quá nhiều từ ngữ để diễn tả làn mưa mà chủ yếu khắc họa thông qua sự chuyển mình của thiên nhiên. Nhờ đó, nó hiện ra một cách chân thật và rõ nét hơn, khiến trái tim người thưởng thức xao xuyến khôn nguôi.

Cơn mưa xuân ấy dịu dàng và mỏng manh tựa như một làn sương nhỏ. Không ai có thể cảm nhận được rõ ràng sự hiện diện của nó đến mức vạn vật xung quanh vẫn tiếp tục nhịp sống riêng.

“Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân?

Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần

Bươm bướm cứ bay không ướt cánh

Người đi trẩy hội tóc phơi trần.” – Mưa xuân II

Nguyễn Bính đã rất khéo léo và tài năng khi sử dụng câu hỏi tu từ trong Mưa xuân II. Nó khiến tác phẩm mang sắc màu dân gian, trở nên gần gũi, quen thuộc hơn với đời sống nhân dân.

Bên cạnh đó, thi sĩ còn bộc lộ cả vốn ngôn ngữ đa dạng, phong phú cùng tài quan sát nhạy bén ở khâu lựa chọn chi tiết và từ ngữ. Bằng hình ảnh tơ nhện trắng ngần hay bươm bướm bay mà không ướt cánh, ông đã lột tả sự dịu dàng, nhỏ nhẹ của làn mưa xuân.

Đặc biệt, nhà thơ còn mang vào tác phẩm cả nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha ta. Những lễ hội độc đáo đầy màu sắc với các trò chơi cổ truyền là dịp để mọi người gác đi bao lo toan năm cũ, đắm mình trong bầu không khí sum vầy, ấm cúng.

Không chỉ miêu tả sức sống nơi cây cối mà Nguyễn Bính còn hướng tầm mắt ra xa, nhận thấy cả những biến chuyển ở cung đường hay gò núi quen thuộc. Dưới cách khắc họa của thi sĩ, dường như chúng cũng đang lặng lẽ tận hưởng nhựa sống dồi dào do mưa xuân mang tới.

“Đường mát da chân lúa mát mình

Đôi bờ cỏ dại nở hoa xanh

Gò cao đứng sững trâu kềnh bụng

Nghếch mõm nghe vang trống hội đình.” – Mưa xuân II

Nhờ vào làn mưa đầu xuân, bầu không khí trong tác phẩm trở nên dịu nhẹ, thanh mát hơn. Hơi nước thấm đẫm từng cung đường cùng bờ cỏ dại, mang đến cho con người cảm giác thư thái và dễ chịu.

Trong hồn thơ Nguyễn Bính, luôn có sự giao hòa giữa hình ảnh và âm thanh. Tiếng trống từ hội đình đằng xa vang vọng khắp mọi ngóc ngách nơi miền quê yên bình, khiến cả những chú trâu cũng phải giật mình ngơ ngác.

Tình xuân chan chứa trong thi phẩm Mưa xuân II

Tác phẩm Mưa xuân II do Nguyễn Bính chấp bút không chỉ dựng lên một bức tranh thiên nhiên buổi chiều xuân phơi phới sức sống mà còn vẽ nên cả khung cảnh sinh hoạt nơi thôn quê. Vì vậy, bài thơ trở nên có hồn và sống động, dễ dàng đi vào tâm hồn giới thưởng thức hơn.

“Núi lên gọn nét lá tươi màu

Xe lửa về Nam chạy mau mau

Một toán cò bay là mặt ruộng

Thành hàng chữ nhất trắng phau phau.” – Mưa xuân II

Thấp thoáng trong bài thơ là hình ảnh đàn cò đang nối đuôi nhau xếp hàng bay đi, tạo thành những vệt trắng tô điểm cho khung cảnh yên bình. Bằng việc sử dụng từ láy “phau phau”, thi sĩ đã tạo nên một ấn tượng mạnh về sắc màu tươi sáng, trong trẻo của loài chim thuộc họ Hạc này.

Trong không khí nhộn nhịp, vui tươi đang bao trùm khắp không gian ấy, dòng người cũng náo nức chen nhau lên tàu trở về quê hương. Mùa xuân không chỉ mang đến sức sống cho mọi nhà mà còn là dịp để những đứa con làm ăn xa đoàn tụ với gia đình.

Dường như mưa xuân không chỉ giăng tơ cho trời đất, nó còn làm sống dậy ở tâm hồn con người những tình cảm khó diễn tả thành lời. Chứng kiến khung cảnh đẹp đẽ ấy của thiên nhiên, nhân vật trữ tình mà cũng chính là là tác giả cứ mãi lưu luyến, chẳng nỡ chia xa.

“Chiều xuân lưu luyến không đành hết
Lơ lửng mù sương phảng phất mưa.” – Mưa xuân II

Gánh trên vai trọng trách cao cả và thiêng liêng, hơn ai hết Nguyễn Bính ý thức rất rõ trách nhiệm của mình. Ông luôn nỗ lực mang đến cho độc giả những lời thơ hay cũng như đẹp đẽ, giàu giá trị biểu cảm nhất.

Ở trong tác phẩm Mưa xuân II, thi sĩ đã có một sáng tạo vô cùng đặc biệt với câu thơ “Chiều xuân lưu luyến không đành hết”. Có lẽ không chỉ tác giả mà ngay chính làn mưa xuân cũng luyến lưu, chẳng nỡ rời xa khung cảnh làng quê yên tĩnh, thơ mộng này.

Thi ca Nguyễn Bính có sự kết hợp nhuần nhuyễn, ý vị giữa nét truyền thống cũng như hiện đại. Vì vậy, câu thơ ông viết ra luôn mang nhiều tầng nghĩa khác nhau, tạo thành một thế giới mở cho phép độc giả phát huy trí tưởng tượng và trở thành kẻ đồng sáng tác.

Bên cạnh đó, ông còn là người đặc biệt chú ý đến cấu tứ tác phẩm. Hình ảnh làn mưa xuân nhỏ nhẹ, dịu dàng xuất hiện đầu thi phẩm Mưa xuân II một lần nữa được tác giả nhắc lại ở cuối bài thơ.

Với lối cấu tứ độc đáo ấy, tác giả đã khiến cho mạch thi ca trở nên mượt mà hơn. Làn mưa xuân cũng vì vậy mà trở thành hình tượng trung tâm, chi phối đến cả tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim những kẻ say mê thơ Nguyễn Bính

Tính dân tộc thấp thoáng trong từng câu chữ

Nguyễn Bính là một nhà thơ suốt đời hướng về làng quê cùng con người Việt Nam chân chất, thật thà. Vì vậy, mỗi thi phẩm do ông sáng tác nên đều thấm đượm tinh thần dân tộc sâu sắc.

Những tháng năm gắn bó với thôn quê mộc mạc đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận nuôi dưỡng trang thơ Nguyễn Bính. Vì vậy, ông nhiều lần chấp bút thai nghén nên các áng thi ca in đậm bóng hình thiên nhiên cùng con người đất nước.

Tính dân tộc trong Mưa xuân II trước hết nằm ở khung cảnh làng quê truyền thống Việt Nam, cụ thể là vùng Bắc Bộ ngày trước. Nó hiện lên một cách sinh động và chân thực đến mức độc giả có cảm tưởng như đang chính mình sống lại những tháng ngày khó quên ấy.

Đặc biệt, thi sĩ còn gạn lọc các hình ảnh rất tiêu biểu cho hồn quê dân tộc. Ấy là những làn tơ nhện giăng mác khắp vườn cây, bờ dâu tươi tốt trĩu nặng quả và dòng người trẩy trong niềm phấn khích, hân hoan.

Không chỉ dừng lại ở việc tái hiện khung cảnh thiên nhiên bình dị cùng nhịp sống êm đềm, các sáng tác do Nguyễn Bính viết nên còn phảng phất cả dư vị tình quê. Ấy là một cái tôi luôn trân trọng những cảm xúc, ước vọng của người nông dân, tự ý thức gìn giữ nét đẹp văn hóa truyền thống lâu đời.

“Hồn tôi là một cánh đồng xanh mướt lúa ngô, là bờ sông thổi gió, là khói bếp la đà mái rạ, là hoa xoan tím, lục bình cũng tím, hoa chanh thơm, hoa bưởi cũng thơm, là râm ran tiếng chợ trưa về, là ngọt ngào lời chào thăm hỏi của cô bác láng giềng đầu ngõ, là mơ màng huyễn hoặc những câu chuyện ngày xưa bên bếp lửa đêm đêm”. – Nguyễn Bính tâm sự về nguồn cảm hứng về làng quê trong mạch thi ca của mình

Tính dân tộc trong thi phẩm được thể hiện rất rõ ở tình cảm Nguyễn Bính dành cho thôn quê. Ông yêu mến nơi từng gắn bó với mình thuở nhỏ như người nông dân trân quý mảnh vườn, dù đi đâu cũng hướng về quê nhà thân thương.

Không chỉ vậy, bằng việc sử dụng các chất liệu có nguồn gốc từ văn học dân gian và lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhà thơ đã khiến cho thi phẩm mang dáng điệu vô cùng quen thuộc với độc giả mọi thế hệ.

Những nét nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ Mưa xuân II

Mưa xuân II là một trong các áng thơ đẹp đẽ nhất, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của thi sĩ đồng quê Nguyễn Bính. Nó không mang giá trị nội dung sâu sắc mà còn chứa đựng cả những nét nghệ thuật độc đáo từ đôi bàn tay rất mực tài hoa.

Thi phẩm in đậm dấu ấn làng quê Việt Nam với các hình ảnh quen thuộc như đàn có trắng, bờ cỏ non hay lễ hội linh đình. Thi sĩ đã sử dụng thứ chất liệu mộc mạc, biến tấu chúng trở thành những vần thơ đẹp lung linh.

“So với các nhà thơ lãng mạn trước đây, Nguyễn Bính đứng riêng một cõi.” – Tác giả Lê Đình Kỵ nhận xét về phong cách sáng tác độc đáo của Nguyễn Bính

Không chỉ vậy, Nguyễn Bính còn mang đến cho thể thơ tứ tuyệt trường thiên một sắc màu vừa lạ lẫm lại thân quen. Ấy là bởi vì, ông luôn biết cách biến tấu, phả vào từng câu chữ nét đẹp truyền thống kết hợp cùng hiện đại.

Người đã dành cả đời sáng tác thơ về thôn quê Việt Nam dân dã này còn sở hữu vốn ngôn từ đồ sộ và phong phú. Từng câu chữ nằm trên trang giấy trắng kia đều được ông dày ông lựa chọn và sắp xếp, giàu giá trị biểu cảm cùng gợi hình cao.

Tiếng thơ thi sĩ trong trẻo, mộc mạc mà vô cùng sâu sắc, đằm thắm. Ngôn ngữ trong các tác phẩm do Nguyễn Bính thai nghén rất đa dạng và phong phú, xuất phát từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động.

Tác giả còn vận dụng một cách tài tình, tinh tế các thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa hay câu hỏi tu từ. Chúng không chỉ lột tả được sức sống của làng quê khi mùa xuân tràn về mà còn khiến trang thơ trở nên hấp dẫn và lôi cuốn, giàu nhịp điệu hơn.

Mưa xuân II khép lại với khung cảnh làng quê yên thanh bình, đẹp đẽ. Làn mưa xuân ấy đã vượt ra khỏi tác phẩm, len lỏi và gieo rắc nỗi nhớ nhung, xao xuyến vào tâm hồn những kẻ yêu mến thơ Nguyễn Bính.

Lên đầu trang