Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều cách nói vận dụng hình ảnh của các loài động vật như “Chuồn chuồn đạp nước”, “Cõng rắn cắn gà nhà” hay “Bọ ngựa chống xe”.
Thành ngữ “Ướt như chuột lột” quen thuộc với đời sống hàng ngày của nhân dân nằm trong số đó. Nó được dùng để diễn tả sự ướt át đến cùng cực hay ý nghĩa rộng hơn là cuộc đời truân chuyên, lắm vất vả.

Ý nghĩa của thành ngữ Ướt như chuột lột
“Ướt như chuột lột” bắt nguồn từ tình trạng có thật mỗi khi đến mùa mưa lụt. Vào lúc này, lũ dâng lên ngập cả đồng ruộng, khiến đám chuột không còn chỗ ẩn nấu và phải giãy giụa trong nước.
Ban đầu, thành ngữ này xuất hiện ở dạng “Ướt như chuột lụt”. Thế nhưng, vì vấn đề vần điệu và hình ảnh bầy chuột bị ướt trong mùa bão lụt ít được người đời chú ý nên nó đã thay đổi thành “Ướt như chuột lột” để gần gũi, dễ đọc hơn.
Mượn hình ảnh bầy chuột chạy lụt, cách nói đậm chất dân gian ấy đã thể hiện tình cảnh đáng thương của con người, đặc biệt là tầng lớp nông dân phải làm lụng vất vả, suốt ngày “dầm mưa dãi nắng”.
Sự vận dụng thành ngữ Ướt như chuột lột trong Sống chết mặc bay
Sống chết mặc bay là một truyện ngắn có sức ảnh hưởng của tác giả Phạm Duy Tốn. Chỉ bằng tình huống vỡ đê, văn sĩ đã lột tả được bản chất xấu xa, thối nát bộ máy quan lại đương thời.
Trong tác phẩm, ông đã vận dụng khéo léo và nhuần nhuyễn thủ pháp nghệ thuật tăng tiến cũng như tương phản để châm biếm sự ích kỷ của những người đứng đầu nhân dân. Họ thản nhiên đánh tổ tôm, tận hưởng cao lương mĩ vị ở căn nhà nguy nga, sang trọng.
Trái ngược với điều này, dân chúng ngoài kia đang lao lực và hốt hoảng chỉ mong sao giữ được khúc đê. Những con người tội nghiệp ấy phải túc trực từ sáng sớm cho đến khi tối muộn, chịu đựng cơn mưa tầm tã thi nhau trút nước.
Nhằm tái hiện tình cảnh ấy, Phạm Duy Tốn đã vận dụng thành ngữ dân gian “Ướt như chuột lột”. Tuy nhiên, ông không giữ nguyên toàn bộ câu mà linh hoạt điều chỉnh để phù hợp với lời văn.
“Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột.” – Sống chết mặc bay
Sự ví von ấy còn nhấn mạnh cả thân phận thấp bé của tầng lớp nông dân. Họ không được xem trọng và đối xử như một con người thực thụ, chỉ là công cụ để những tên quan phụ mẫu chà đạp, bóc lột.
Tình cảnh ướt như chuột lột trong tiểu thuyết Tắt đèn
Cho đến tận ngày nay, tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố vẫn vẹn nguyên giá trị, được độc giả nhiều thế hệ yêu quý. Ấy là bởi vì, nó đã tái hiện cả một thời kỳ đầy biến động và đau thương mà dân tộc từng trải qua những năm trước Cách mạng tháng Tám.
Nhân vật chính của áng văn là chị Dậu, suốt đời tần tảo và yêu thương chồng con hết mực. Trớ trêu thay, cuộc đời người phụ nữ ấy không có lấy một phút giây yên bình mà chỉ toàn nước mắt, đớn đau.
Vì những điều luật sưu thuế vô lý, chị Dậu đã phải bán cả đứa con do mình đứt ruột sinh ra cho ông Nghị Quế. Thậm chí, chồng cô cũng bị lũ cai lậy bắt đi và hành hạ.
Để gồng gánh gia đình, người phụ nữ này đã phải làm lụng khắp nơi, ngậm đắng nuốt cay nghe lời mạt sát, chửi rủa từ những kẻ có tiền. Thế nhưng đến cuối cùng, chị Dậu vẫn không thể vươn lên, thoát khỏi cái nghèo cùng gánh nặng thuế sưu.
Ở cuối tiểu thuyết Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã xây dựng nên chi tiết chị Dậu chạy khỏi nhà tên quan xấu xa trong màn đêm u tối. Sự khốn khổ ấy của nhân vật chẳng khác nào ý nghĩa thành ngữ “ướt như chuột lột”, dù vùng vẫy thế nào vẫn không thể thoát khỏi kiếp đọa đày.
Thông qua cuộc đời chị Dậu, văn sĩ đã phản ánh cuộc sống không khác gì địa ngục trần gian của người nông dân trong xã hội cũ. Hơn thế nữa, ông còn thể hiện sự cảm thông cùng niềm tin vào vẻ đẹp ngời sáng nơi tâm hồn họ.