Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bút ký của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác phẩm tái hiện vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn đa chiều từ thiên nhiên, lịch sử đến văn hóa.

Bằng tình cảm say mê và tài năng điêu luyện trong việc vận dụng ngôn từ, nhà văn đã thổi hồn cho Hương giang trở nên sống động trước cảnh sắc Huế lẫn hào hùng trong sử thi dân tộc.

Vài nét về nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở Quảng Trị. Ông dành hơn nửa cuộc đời gắn liền với mảnh đất cố đô nên đa phần những tác phẩm của ông đều gắn liền với thiên nhiên, con người xứ Huế.

Khi nghe tiếng gọi cách mạng, nhà văn đã tích cực tham gia vào các phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam. Chiến tranh kết thúc, ông tiếp tục đóng góp đời mình cho sự nghiệp nghệ thuật nước nhà.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn phải lòng những dòng sông
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn phải lòng những dòng sông

Hoàng Phủ Ngọc Tường là gương mặt tiêu biểu trên văn đàn Việt Nam hiện đại, ông có sở trường về hai thể loại tùy bút và bút ký. Nét đặc sắc trong trang văn của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.

Nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, độc giả có thể nhớ ngay đến người si tình những dòng sông. Theo lời chia sẻ của chính tác giả, các con sông luôn mang lại cho ông nguồn cảm hứng bất tận. 

Ngay cả khi về già, gần như phải ngồi một chỗ vì bệnh tật, tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn lạc quan, yêu đời. Hoài niệm về dòng sông đã cứu rỗi nhà văn, để khi mệt mỏi, ông “lại thúc mình vươn lên như những đợt sóng vỗ mãi không thôi”.

Đôi dòng về bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Ai đã đặt tên cho dòng sông? được nhà văn viết ở Huế vào năm 1981, in trong tập bút ký cùng tên. Tác phẩm bao gồm tám bài ký, viết ngay sau chiến thắng vang dội năm 1975, vì vậy sáng bừng khí thế ngợi ca vẻ đẹp quê hương, đất nước.

Tùy bút viết về nét đẹp đa chiều của sông Hương, được Hoàng Phủ Ngọc Tường chăm chút bằng tài năng và tình yêu. Đồng thời, với cách nhìn, cách cảm mới, nhà văn thành công trong việc thu hút độc giả tận tình thưởng thức Ai đã đặt tên cho dòng sông?.

Với nhan đề là một câu hỏi tu từ trữ tình Ai đã đặt tên cho dòng sông?, tác giả cũng như người đọc tự hỏi chính mình rằng ai đã đặt cho dòng sông cái tên mỹ miều. “Hương” vừa gợi ra nét đẹp thiên phú lại gợi cả mùi thơm trang nhã, khiến cho biết bao người thán phục.

Nhà văn cũng tự hào góp phần lý giải tên dòng sông bằng giai thoại của người dân làng Thành Chung. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện niềm trân trọng và biết ơn người đã khai phá dòng sông, khai phá cả vẻ đẹp văn hóa xứ sở.

Vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn địa lý gắn liền với thiên nhiên xứ Huế

Mỗi khi Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc Truyện Kiều, âm hưởng thiên nhiên xứ Huế lại xuất hiện trên mỗi câu thơ, nhắc ông nhớ về hình ảnh đáy nước in trời và sắc vàng khói biếc nơi cố đô. 

Ai đã đặt tên cho dòng sông? miêu tả nét đẹp sông Hương trên nhiều bình diện
Ai đã đặt tên cho dòng sông? miêu tả nét đẹp sông Hương trên nhiều bình diện

Sông Hương ngự ở kinh thành Huế như cặp tình nhân lý tưởng Kim Trọng và Thúy Kiều, “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở”.

Sông Hương nơi thượng nguồn

Dưới tư cách người lữ khách khám phá vẻ đẹp nàng thơ, nhà văn gần như bao quát mọi thủy trình mà dòng sông đi qua. Ở nơi thượng nguồn, sông Hương vừa mang nét hùng vĩ, tráng lệ vừa đậm chất trữ tình, trí tuệ.

Mở đầu đoạn văn, tác giả tự hào khẳng định vị thế ngang hàng của sông Hương với các dòng sông nổi tiếng trên thế giới. Nhà văn đã tìm thấy nét độc đáo và thương mến lòng thủy chung khi nó “chỉ thuộc về một thành phố duy nhất”.

Nhắc đến sông Hương, độc giả hay liên tưởng tới độ phẳng lặng, êm đềm giữa lòng thành phố. Riêng nhà văn, ông không dừng lại ở việc ngắm nhìn “khuôn mặt kinh thành” mà còn lặn lội tìm về cội nguồn dòng chảy đầy hoang sơ, dữ dội.

Hoàng Phủ Ngọc Tường sử dụng một câu văn dài để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ nơi thượng nguồn. Nơi đây cất giữ một phần tuổi xuân của người con gái xinh đẹp, làm rung động bao tâm hồn độc giả ưa thích khám phá.

“Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng.”

“Bản trường ca” là áng văn mang đậm cảm hứng ngợi ca với nhiều trường đoạn và tiết tấu linh hoạt. Kết hợp cùng hình ảnh “rừng già”, độc giả có thể liên tưởng đến khúc hoà tấu đầy hoang dại ở thượng nguồn con sông. 

Nhà văn liên tục sử dụng những hình ảnh “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua ghềnh thác” và “cuộn xoáy như cơn lốc” cùng với các động từ, tính từ mạnh để tô đậm sự va đập dữ dội của dòng sông. 

Dư âm rừng già vẫn còn vang trong từng câu chữ, độc giả lại ngay lập tức cảm nhận rằng sông Hương cũng có lúc “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Giữa lòng Trường Sơn, nàng thơ Xứ Huế mang nét đẹp “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, gợi liên tưởng thú vị về thiếu nữ Bô-hê-miêng. Họ là những cô gái xinh đẹp, dùng điệu nhảy, lời ca để tạo nên một cuộc sống tràn đầy niềm vui.

Rừng già đã hun đúc cho người con gái ấy “bản lĩnh gan dạ”, tâm hồn trong sáng để sông Hương nơi thượng nguồn thật sự sống một cuộc đời kiêu hãnh. Tuy nhiên, khi về đến thành phố, dòng sông đã tự chế ngự sức mạnh hoang dã, tinh tế với sắc đẹp hiền hòa, trí tuệ.

Để sánh đôi cùng người tình lý tưởng, cô gái ấy giữ lại nửa cuộc đời oanh liệt sau cánh đại ngàn. Đó là vẻ đẹp dung hòa giữa dịu dàng khi tìm được bến đỗ bình yêu, đậm chất trí tuệ sau bao thăng trầm để xứng đôi với nét điềm đạm của chàng trai Huế.

Khi về đến đồng bằng, sông Hương vẫn mang vẻ đằm thắm vốn có với điệu chảy lặng lờ tựa như nguyện ý thay đổi vì người mình yêu. Tác giả không lý giải sự tương phản giữa dòng chảy ở thượng lưu và hạ lưu bằng kiến thức địa lý đơn thuần mà bằng cái nhìn suy tư thấm đẫm tình cảm.

Nét đẹp Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố Huế trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Với ánh nhìn lãng mạn, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo gợi nhắc về khoảng thời gian “phải nhiều thế kỷ trôi qua”, người con gái ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa man dại mới được người tình lý tưởng đánh thức.

Nhà văn miêu tả dòng chảy chuyển dòng liên tục và đột ngột như báo hiệu sự bừng tỉnh của thiếu nữ. Sử dụng hàng loạt động từ mang sắc thái nhân hóa, tác giả vẽ nên hành trình chuyển mình sinh động, góp phần khắc họa nét đẹp dòng Hương giang.

Người thiếu nữ ấy vẫn đi trong “dư vang Trường Sơn”, giữa hai đồi núi sừng sững, sắc nước trở nên “xanh thẳm” và dòng chảy “mềm mại như tấm lụa”. Nét đẹp của sông Hương không chỉ đến từ thiên chất ẩn giấu mà còn được tô điểm bởi thiên nhiên xứ Huế.

Từ cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại, sông Hương tự làm mới cho chính mình bằng cách trở nên hiền dịu và thùy mị. Cô gái ấy làm duyên làm dáng trước mắt người dân Huế, gây ấn tượng bởi sắc màu thay đổi theo thời gian “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Giờ đây, sự rực rỡ của quần thể thiên nhiên hắt bóng kỳ diệu vào dòng chảy trở thành bộ váy thanh lịch cho người thiếu nữ. Giữa cố đô cổ kính, sông Hương mang nét đẹp người con gái Việt Nam dịu dàng, tao nhã nhưng không phô trương.

“Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên.”

Hương giang vẫn đi dưới bầu trời tươi đẹp, quyện vào “rừng thông u tịch” và lăng tẩm vua chúa đầy vẻ kiêu hãnh, âm u trong hàng nghìn năm qua. Đó là nét uy nghi, cổ kính như một vị hoàng hậu đích thực sánh đôi cùng “vị vua uy phong” kinh thành Huế.

Để rồi khi nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang giữa “những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà”, dòng nước trở nên phẳng lặng như đưa du khách trên thuyền trôi đi giữa hai bờ hư thực, giữa đạo và đời đằm thắm văn hóa cố đô. 

Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế

Trải qua cuộc hành trình vạn dặm, sông Hương đắm mình vào kinh thành Huế cho thỏa niềm mong đợi. Cô gái “vui tươi hẳn lên”, kéo một nét “thẳng thực yên tâm” vì tìm đúng bến đỗ.

Dòng sông hiện ra với vẻ đẹp thơ mộng như một dải lụa mềm mại huyền ảo, duyên dáng hòa cùng sắc xanh bình dị của vùng ngoại ô Kim Long. Đường cong uốn nhẹ đến Cồn Hến được nhà văn liên tưởng tựa “tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.

Qua phép so sánh mới lạ, độc giả có thể nghĩ ngay đến hình ảnh thiếu nữ e ấp nhưng cũng không kém phần mạnh mẽ trước tình yêu. Nơi đây cũng đánh dấu đích đến cuộc “tìm kiếm có ý thức” người tình lý tưởng của Hương giang.

Một lần nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương với sông Xen ở Paris, sông Neva của Xanh-pê-téc-bua vì đó là những dòng sông xinh đẹp và thủy chung, chảy thổn thức trong lòng các thành phố lớn.

Tuy nhiên, giữa muôn vàn dòng sông nổi tiếng, “nàng thơ xứ Huế” vẫn ngự trị ngai vàng trong lòng tác giả. Sông Hương giữ vẻ dịu dàng để hòa điệu cùng cố đô “xưa cũ mà không thành phố hiện đại nào có được”.

Với niềm hoài cổ, tác giả hướng cái nhìn trầm tư tới những “cây đa, cây cừa cổ thụ”. Độc giả có thể liên tưởng đến câu thơ “Giang phong ngư hỏa đối miên sầu”, ngụ ý cây phong bên sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn.

Sông Hương cũng cất giữ tâm hồn đa sầu đa cảm như thế, để rồi khi có chỗ vỗ về, thiếu nữ càng không muốn rời xa. Dòng chảy “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh” mà tác giả gọi là một “điệu slow” uyển chuyển dành riêng cho tình yêu tha thiết.

“Dòng nước sông Hương chảy lặng lờ 

Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ.” – Trong đôi mắt Huế – Đông Hồ.

Nhà văn bất chợt nhớ lại dòng chảy sông Nê-va cuốn đám băng tan trôi đi nhanh quá. Những con chim hải âu đứng một chân trên “chiếc thuyền băng” chưa kịp nói lời từ biệt với bạn đã bị nước sông cuốn đi.

Vì thế, giữa muôn vàn ký ức của tác giả, ông trân quý điệu chảy lặng lờ của sông Hương vì vốn dĩ “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Câu nói này mang ý nghĩa vạn vật biến chuyển nhanh chóng, khi gặp lại lần nữa đã có biết bao chuyện thay đổi. 

Dòng nước êm ả nơi đây cất giữ nhiều ký ức về tuổi thơ và tình yêu của nhà văn đối với quê hương. Để rồi sau nhiều năm lên đường học tập ở các vùng đất xa lạ, ông vẫn cảm thấy thân thuộc như gặp lại cố nhân khi trở về thành phố Huế.

Trong khoảnh khắc chùng chình của sông nước, Hoàng Phủ Ngọc Tường liên tưởng Hương giang tựa “người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya”. Nàng dẫn dắt cả nền âm nhạc cổ điển Huế và trở thành nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ.

Nét đẹp Sông Hương đoạn rời khỏi kinh thành Huế 

Dù không muốn rời đi, sông Hương vẫn phải tiếp tục “chếch về hướng Bắc”, ôm lấy đảo Cồn Hến để tiếp tục cuộc thủy trình. Sông Hương bắt đầu mờ dần sau muôn vàn tre trúc và vùng cau ngoại ô xanh biếc.

Bất giác độc giả lại nhớ đến thôn Vĩ Dạ, vùng đất từng thay biết bao người tiễn đưa Hàn Mặc Tử rời khỏi trần thế. Thiên nhiên xứ Huế say đắm lòng người làm cho lữ khách đi qua đều không thể giấu nỗi tiếc nuối khi phải rời xa.

“Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em

Sông lượn khúc lượn dòng mà tới biển” – Vũ Quần Phương

Những tưởng dòng sông lặng thầm từ biệt, thế nhưng như “sực nhớ điều gì”, sông Hương đột ngột rẽ dòng ở cuối thị trấn Bao Vinh. Nơi đây chứa đầy ký ức kẻ ở người đi, gợi lên cảm giác ngậm ngùi đau xót lúc chia ly.

Sông Hương vốn đang xuôi dòng phù sa êm ái, lại trở thành “nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” tại khúc quanh này. Dưới ánh nhìn lãng mạn của nhà văn, dòng sông giống như nàng Kiều trong đêm tình tự đã trở lại tìm Kim Trọng. 

“Cửa ngoài vội rủ rèm the

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” – Nguyễn Du.

Nỗi niềm chia xa khiến cho người con gái phần nào cảm thấy hoài nghi và lo sợ. Vậy nên để chứng minh cho tấm lòng thủy chung, Hương giang đã lập lời thề trước khi về với biển cả rằng “Còn non còn nước còn dài/ Còn về còn nhớ đến người hôm nay”.

Lời thề thiêng liêng trở thành sự gắn kết chung tình của đôi lứa, cho đến ngày nay vẫn âm vang trong từng câu hò dân gian vùng Châu Hóa. Có lẽ người dân nơi đây ngưỡng mộ tấm lòng Kiều dành cho Kim Trọng cũng như tình yêu họ dành cho quê hương xứ sở.

Sông Hương bộc lộ nhiều nét đẹp và tính cách khi đi qua mỗi chặng thủy trình khác nhau. Nàng là cô gái mạnh mẽ và phóng khoáng nơi thượng nguồn, vì gặp tình yêu mà trở nên dịu dàng đằm thắm.

Khi chảy vào lòng thành phố Huế, dòng nước lặng lẽ như muốn có thêm thời gian quấn quýt bên cạnh người tình lý tưởng. Để rồi lúc chia xa, sông Hương lưu luyến bộc lộ nét “lẳng lơ kín đáo” mà rất mực chung tình trước ngày về biển lớn.

Sông Hương hào hùng dưới góc nhìn lịch sử trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức sâu rộng, giúp độc giả hình dung bao quát dòng sông Hương hào hùng, bi tráng dưới góc nhìn lịch sử. 

Sông Hương hào hùng và bi tráng dưới góc nhìn lịch sử
Sông Hương hào hùng và bi tráng dưới góc nhìn lịch sử

Sông Hương với tư cách một chứng nhân lịch sử đã góp sức mình vào suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Để rồi khi hòa bình lập lại, dòng sông cùng với thành phố Huế là mốc son chói lọi trong lịch sử đất Việt.

Sông Hương trong nhiều thế kỷ trung đại và cận đại

Từ thuở đầu lập nước, sông Hương đã sống vinh quang với danh xưng “dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước dưới thời các vua Hùng”. Khi ấy, sông Hương mang tên Linh Giang, chiến đấu oanh liệt để bảo vệ vùng viễn châu phía Nam Đại Việt.

Với tư cách chứng nhân lịch sử, dòng sông tiếp tục “soi bóng kinh thành Phú Xuân” của người anh hùng Nguyễn Huệ. Phú Xuân là vùng đất gắn liền với triều đại Tây Sơn, một vương triều đã làm nên những chiến công hiển hách vào cuối thế kỷ thứ XVIII.

Đó là một khoảng thời gian dài đầy khí thế hiên ngang của cha ông ngày trước. Ví như Huế là một vị vua anh tài thì sông Hương cũng là nàng hoàng hậu giỏi giang, góp phần tạo nên bộ mặt kinh thành xưa.

Sông Hương và nhiều chiến công hiển hách thời hiện đại

Một trăm năm sau đó, sông Hương tiếp tục cuộc đời hào hùng của mình, tạc vào dạ bao nhiêu máu hòa cùng dòng nước khi dân ta đánh đuổi đế quốc phương Tây. Đó vừa là nỗi đau vừa là niềm tự hào của một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất.

Cuộc chiến đã chấm dứt với chiến công vang dội, rung chuyển cả thế giới lúc bấy giờ. Từ Cách mạng tháng Tám đến chiến thắng mùa xuân năm 1975 hoàn tất thống nhất đất nước, sông Hương đều âm thầm lưu lại tất cả.

Dòng sông cũng ghi nhớ nỗi đau thương, phẫn uất của người dân Châu Hóa khi thành phố Huế bị tàn phá nặng nề bởi bom mìn. Mảnh đất quê hương là máu thịt, Huế đổ nát cũng không khác gì chính họ bị địch giày xéo trên chiến trường.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trích lời những giáo sư Mỹ để nói lên sự tức giận khi kinh thành xưa bị phá hủy. Qua đó, ông góp phần khẳng định Huế là một trung tâm văn hóa lớn, không chỉ là di sản của người Việt mà của cả thế giới nói chung.

“Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại.”

Bằng những cống hiến cho Tổ quốc, thành phố Huế trở thành nét son trong lịch sử Đảng. Cùng với đó, sông Hương cũng được ngợi ca là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.

Ẩn mình phía sau dòng chảy lặng lẽ, Hương giang cất giữ bao nhiêu chiến công oanh liệt theo năm tháng. “Sử thi” hào hùng được chắp bút giữa “màu cỏ lá xanh biếc” mang đậm màu sắc thiên nhiên trữ tình và bình dị.

Vậy nên, hình ảnh so sánh tinh tế đã làm bật nổi hai sắc thái khác nhau hòa quyện trong dòng nước Hương giang. Con sông chảy giữa bản trường ca anh hùng của lịch sử và khúc tình ca tươi mát từ cuộc đời thường nhật.

Tác giả kết lại rằng, sông Hương “khi nghe lời gọi nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? miêu tả vẻ đẹp sông Hương dưới góc nhìn văn hóa

Trong thiên bút ký đặc sắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đặc tả Hương giang là người con gái đa tài đa sắc. Nàng không chỉ mang đến nét đẹp rung động lòng người, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận của “một nền văn hóa xứ sở”.

Với cái tôi tự do, phóng khoáng, nhiều lúc nhà văn không kìm được cảm xúc mà hết lời ngợi ca Hương giang. Đó hẳn là một niềm tự hào tha thiết mà chỉ sông Hương xứ Huế mới có thể đem lại cho ông.

Sông Hương là cội nguồn sinh thành của âm nhạc cổ điển Huế

Say mê trước nét đẹp nàng thơ, nhà văn ngay lập tức nghĩ đến “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Hình ảnh so sánh ma mị, quyến rũ hòa với “tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya” tạo nên khung cảnh đậm chất nghệ thuật.

Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện sự thất vọng khi thử nghe ca Huế vào nhiều khoảng thời gian khác trong ngày, để rồi ông lại càng tự hào về nét đặc sắc riêng khi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế” chỉ có thể sản sinh trên mặt nước sông Hương vào đêm khuya.

Đại thi hào Nguyễn Du cũng bao năm lênh đênh trên quãng sông này, dòng chảy trong veo đã truyền cho ông nguồn cảm hứng viết nên nhiều bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều.

“Trong như tiếng hạc bay qua. 

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.”- Nguyễn Du

Nhà thơ không miêu tả cụ thể chính xác bài hát nào, chỉ miêu tả âm sắc tiếng đàn như người nghệ nhân già đã vỗ đùi tán thưởng đó chính là “Tứ đại cảnh”. Nói như vậy, mới có thể hiểu nền âm nhạc cổ điển từ lâu đã thấm sâu vào tâm hồn người dân nơi đây.

Ca Huế không chỉ vang trong đêm khuya mà còn âm lên từ trang thơm thảo của thơ ca Việt Nam. Cả trong cuộc sống thường nhật, hình ảnh “người tài nữ đánh đàn” giữa màn đêm vẫn lưu truyền khắp nơi, đại diện cho cả nền văn hóa xứ sở.

Sông Hương là nàng thơ của nền thi ca nước nhà

Nam Cao đã từng viết “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một kiểu mẫu người ta đưa cho”. Chính vì thế, sông Hương là nàng thơ của thi ca nhưng nàng cũng “không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

Vẻ đẹp phong phú và sắc nước biến ảo của sông Hương ở mỗi thủy trình đã hớp hồn các thi nhân. Từ đó, mỗi nhà thơ với cách nhìn, cách cảm khác nhau đều khoác lên Hương giang một diện mạo nổi bật và riêng biệt.

Sông Hương là người mẹ của "cả một vùng văn hóa xứ sở"
Sông Hương là người mẹ của “cả một vùng văn hóa xứ sở”

Không đâu xa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi mở nét đẹp “nàng thơ xứ Huế” đầy tính nữ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?. Với trí tưởng tượng say đắm của nhà văn, ông miêu tả sông Hương là một cô gái mang nhiều vẻ đẹp đáng tự hào.

Đó là một cô gái “Di-gan phóng khoáng và man dại, sống một cuộc đời kiêu hãnh nơi rừng già”. Khi nghe tiếng gọi của Tổ quốc, thiếu nữ mạnh mẽ ấy không ngần ngại mà hiến mình cho đất nước. 

“Đạp quân thù xuống đất đen

Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” – Đất Nước – Nguyễn Đình Thi

Sông Hương tự biến đổi để thích ứng với hoàn cảnh như thể “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Nàng tựa một người dân Việt Nam yêu hòa bình, chỉ đứng lên chiến đấu khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. 

Trở về đời sống thường nhật, cô gái ấy lại khoác lên sự đằm thắm của người con gái dịu dàng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang lại một góc nhìn bao quát, vừa hào hùng lại trữ tình để viết về dòng sông quê hương.

Độc giả cũng có thể nhìn thấy Hương giang trong rất nhiều bài thơ của các thi nhân nổi tiếng. Với tác phẩm Chơi Huế, nhà thơ Tản Đà bất ngờ trước sắc nước biến ảo nơi dòng chảy, nó đã gợi cho ông cảm giác bâng khuâng lúc du xuân.

“Dòng sông trắng, lá cây xanh

Xuân giang xuân thụ cho mình nhớ ai”

Với bài thơ Hiểu quá Hương giang, Cao Bá Quát đặc tả sự hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” từ dòng nước dài rộng. Nó mang khí phách ngạo nghễ trước đất trời tựa như khí thế hiên ngang của nhà thơ với cuộc đời.

“Vạn chướng như bôn nhiễu lục điều

Trường giang như kiếm lập thanh thiên”

“Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt

Dòng sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh” – Bản dịch nghĩa bài thơ 

“Nàng thơ xứ Huế” cũng có lúc trầm mình trong nỗi u hoài của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ Thăng Long hoài cổ. Từ đời nhà Lý đến nhà Lê, kinh thành ta đặt ở Huế rồi đến đời nhà Nguyễn thì di dời ra Hà Nội.

Khi có dịp đi ngang cố đô xưa, thi sĩ không kìm được nỗi đau lòng trước sự di đô đổi triều. Bà u uất với những đổi thay nhanh chóng, cảnh vẫn ở đấy nhưng người đã chia xa.

“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường

Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt

Nước còn chau mặt với tang thương

Nghìn năm gương cũ soi kim cổ

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.”

Đã có một Hương giang u tịch đoạn trường, cũng có một dòng sông sẵn sàng “mở lòng đón ngày huy hoàng” sau chia ly. Tố Hữu viết nên tác phẩm Tiếng hát sông Hương như lời tâm tình gửi đến Kiều khi chứng kiến cuộc đời đau thương của nàng.

Trước làn nước trong veo của dòng sông, thi nhân xoa dịu nỗi lòng cho độc giả bằng giọng thơ nhẹ nhàng, trầm lắng. Như thể ông đang viết tiếp đoạn kết tươi sáng cho Truyện Kiều rằng dòng nước có thể thanh lọc tâm hồn và rửa đi ô uế cuộc đời.

      “Răng không, cô gái trên sông

Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài

       Thơm như hương nhụy hoa lài

Trong như nước suối ban mai giữa rừng

       Ngày mai gió mới ngàn phương

Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân

       Ngày mai trong nắng trắng ngần

Cô thôi sống kiếp đày thân giang hồ

       Ngày mai bao lớp đời dơ

Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay

       Cô ơi tháng rộng ngày dài

Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng

       Trên dòng Hương Giang…”

Đó là một trong số ít bài thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đề cập như ví dụ tiêu biểu cho những tác phẩm được Hương giang truyền nguồn cảm hứng. Nhà văn đã rất tự hào vì dòng sông quê hương không chỉ là nàng thơ xứ Huế mà còn là nàng thơ của nền thi ca Việt Nam.

Niềm tự hào trong câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi bâng khuâng “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ Ngọc Tường không lý giải ngay mà nhà văn đã đợi đến khi kết thiên bút ký mới hé lộ. 

Ông đề cập đến một giai thoại nổi tiếng về dân làng Thành Trung, vì quá yêu quý con sông mà họ đã nấu nước của hàng trăm loài hoa, đổ xuống dòng sông cho dòng nước thơm tho ngàn đời.

Bên cạnh đó, “tư chất” và “tính cách” sông Hương đã được bộc lộ qua chính cái tên của nó. “Hương” trong vẻ đẹp thiên phú quyện với hương sắc thanh nhã tự nhiên, “Hương” cũng là “nàng thơ” từ các trang thơm thảo của những người nghệ sĩ còn lưu truyền theo năm tháng.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút ký thấm đẫm tình yêu của nhà văn

Từ tình yêu say đắm với Hương giang và sự hiểu biết phong phú, nhà văn đã thành công tái hiện vẻ đẹp đa dạng của dòng sông. Đó là một cái nhìn bao quát cả bề dày lịch sử, cảnh sắc thiên nhiên hòa với nét trữ tình văn hóa.

Nguyên Ngọc từng nhận xét rằng “Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn viết kí hay nhất trong văn học ta hiện nay”. Bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một áng văn tiêu biểu, mang đậm phong cách tự do, thể hiện cái tôi uyên bác của nhà văn. 

Cuộc hành trình ngược dòng sông không chỉ là khám phá đơn thuần về địa lý mà còn là chuyến đi của niềm say mê và tự hào về con sông quê hương. Quả thật là một bút ký “lấp lánh ánh lửa” từ tình yêu mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương.

Mai Hy