Một nắng hai sương – Nỗi vất vả và lam lũ của những người mẹ

Ở nhiều tác phẩm văn học và thơ ca, độc giả không ít lần bắt gặp câu thành ngữ “Một nắng hai sương”. Nó thường được vận dụng để thể hiện nỗi vất vả, nhọc nhằn của người nông dân.

Một nắng hai sương
Một nắng hai sương – Nỗi vất vả và lam lũ của những người mẹ

Ý nghĩa của thành ngữ Một nắng hai sương

Cách nói dân gian này xuất hiện rất nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nó mượn hai hình ảnh quen thuộc với người nông dân là “nắng” cũng như “sương” để nói lên tình cảnh vất vả, lam lũ của họ.

Ở cách giải thích đầu tiên, vế “một nắng” tức là ánh nắng kéo dài cả ngày dài. Trong khi đó, “hai sương” chỉ hai lần làn sương xuất hiện, vào buổi tối và sáng sớm.

Tuy nhiên, thành ngữ này còn được lý giải bằng một cách khác. Thứ tự thời gian diễn ra theo trình tự luân phiên, “một nắng” rồi đến “hai sương”, mang lại cảm giác triền miên và liên tục.

Dưới góc độ này, thành ngữ “Một nắng hai sương” có thể được vận dụng sáng tạo với nhiều biến thể khác nhau như “Hai sương một nắng”, “Một sương hai nắng”. Ở bất kỳ dạng nào, nó cũng đều gợi lên sự nhọc nhằn của người nông dân Việt Nam nói riêng và mọi mảnh đời nói chung.

Thành ngữ Một nắng hai sương trong thi phẩm Bài thơ tình mẹ III

Phạm Thái Sơn là một cái tên tiêu biểu của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Những tác phẩm do ông chấp bút đều nhuốm màu suy tư về các vấn đề bức thiết trong xã hội.

Vào mùa lễ Hiền Mẫu 2016, thi sĩ cho ra đời Bài thơ tình mẹ III. Thi phẩm thể hiện sự kính trọng cùng lòng biết ơn vô bờ bến của ông với những bà mẹ Việt Nam đã một đời cống hiến vì gia đình.

Xuyên suốt tác phẩm là các chi tiết thể hiện sự cao cả nơi tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Họ không màng đến hạnh phúc đời mình mà hy sinh tuổi xuân để chăm lo, vún vén cho tương lai những đứa con thân yêu.

Tác giả Phạm Thái Sơn đã mang vào Bài thơ tình mẹ III câu thành ngữ “Một nắng hai sương”. Nó được vận dụng trong câu thơ một cách tự nhiên, kết hợp với hình tượng “thân cò” nhấn mạnh nỗi vất vả và lam lũ của những người mẹ.

“Bà mẹ Việt cả đời cực khổ

Một nắng hai sương vóc hạc thân cò

Sự hy sinh không chút đắn đo

Tình yêu mến đại dương sâu thẳm.” – Bài thơ tình mẹ III

Qua đó, tác giả khơi dậy sự đồng cảm, giúp mỗi cá nhân thêm trân trọng và yêu thương người mẹ. Ngoài ra, việc vận dụng lối nói dân gian ấy còn khiến bài thơ trở nên gần gũi hơn với độc giả nước nhà.

Sự góp mặt của thành ngữ Một nắng hai sương ở Đất nước

Việc vận dụng chất liệu văn hóa dân gian không chỉ khiến tác phẩm hấp dẫn hơn mà còn thể hiện cả tài năng cùng tấm lòng người cầm bút. Như Nguyễn Khoa Điềm là một trong số đó, ông đã gói ghém vào đứa con tinh thần Đất nước những hình ảnh đậm đà tính dân tộc.

Bài thơ được thi sĩ sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị – Viết  , nằm ở phần đầu chương Năm trường ca Mặt đường khát vọng. Ông đã kết hợp nhuần nhuyễn màu sắc trữ tình và yếu tố chính trị, khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân.

Ở đầu tác phẩm, khi nhắc đến cội nguồn dân tộc và nền văn minh lúa nước, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng thành ngữ “Một nắng hai sương”. Hình ảnh thơ gợi nên cả bức tranh toàn cảnh về cuộc sống lam lũ, tảo tần của người nông dân đất Việt.

“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng.” – Đất nước

Để làm nên hạt gạo dẻo thơm và trắng ngần, nhân dân ta đã đổ biết bao nhiêu thời gian, sức lực. Họ phải quần quật ngày đêm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, trải qua nhiều công đoạn trước khi gặt hái thành quả.

Tác giả đã tôn vinh nét đẹp phong tục, truyền thống trải dài suốt lịch sử dựng và giữ nước của ông cha ta. Từ đó, thể hiện sự biết ơn cùng lòng quyết tâm bảo vệ dải đất thân thương này.

Vẻ đẹp một nắng hai sương của phụ nữ Việt Nam trong Cô hàng xén

Người phụ nữ Việt Nam xưa không chỉ đằm thắm, duyên dáng mà họ còn sở hữu một tâm hồn đẹp đẽ, chịu thương chịu khó. Vẻ đẹp ấy đã được Thạch Lam phát hiện và ghi tạc trong truyện ngắn Cô hàng xén, xuất bản lần đầu năm 1938.

Truyện ngắn xoay quanh cuộc đời vất vả của nhân vật Tâm với gánh hàng xén trĩu nặng trên vai. Từ khi còn là cô thiếu nữ xinh đẹp cho đến lúc về nhà chồng, chưa bao giờ nàng thoát khỏi kiếp sống lam lũ.

Tâm phải thức khuya dậy sớm, vượt cả chặng đường dài để kịp đến chợ bày bán. Dù trời nắng gắt hay lạnh buốt, nàng vẫn bước thật đều đặn, một lòng chăm lo cho gia đình cùng đàn em thơ.

Sống trong cái nghèo là thế nhưng cô hàng xén ấy chưa bao giờ ích kỷ chỉ nghĩ cho bản thân. Ngược lại, nàng luôn cố gắng hoàn thành nghĩa vụ của một người vợ và chị.

Sự tảo tần ấy của Tâm đã thể hiện rất rõ ý nghĩa câu thành ngữ “Một nắng hai sương”. Nàng chính là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, lặng lẽ chịu đựng và giàu đức hy sinh.

anh tìm không ra tên chiến khu, em có bài báo nào nói cái này k

https://luatminhkhue.vn/tac-gia-tac-pham-bai-tho-dat-nuoc-nguyen-khoa-diem-ngu-van-lop-12.aspx

Dạ đây a

Lên đầu trang