“Tiền trảm hậu tấu” là một câu thành ngữ quen thuộc, xuất hiện từ xa xưa. Nó được sử dụng để chỉ những việc làm không chờ đợi cấp trên, sau khi hoàn thành mới báo cáo, thưa gửi.

Ý nghĩa của thành ngữ Tiền trảm hậu tấu
Thành ngữ này có cấu tạo gồm hai vế “tiền trảm” cũng như “hậu tấu”. Trong đó, “tiền trảm” nghĩa là chém trước và “hậu tấu” có thể được hiểu như tâu thưa, báo cáo sau.
Vì vậy, “Tiền trảm hậu tấu” thể hiện những việc do cấp dưới tự quyết định hành động mà không cần chờ lệnh cấp trên. Đây là một đặc quyền chỉ được trao trong các hoàn cảnh đặc biệt.
Tuy nhiên, nếu như không được trao quyền mà cứ thế thực thi thì lại là hành vi tùy tiện, vô tổ chức. Ở trường hợp này, thành ngữ “Tiền trảm hậu tấu” ngầm ám chỉ những người lạm dụng chức danh, khiến trật tử xã hội bị đảo lộn.
Bên cạnh đó, cách nói đậm chất dân gian này còn được sử dụng để chỉ những việc bất đắt dĩ, buộc phải chấp nhận, không thể thay đổi.
Thực trạng xã hội tiền trảm hậu tấu trong Truyện Kiều
Truyện Kiều được ví như một tuyệt tác của nền văn học nước nhà, sáng tác bởi bậc đại thi hào Nguyễn Du. Nó đã tái hiện một cách sâu sắc những bất công và ung nhọt trong xã hội phong kiến đương thời.
Xuyên suốt tác phẩm là những vần thơ tố cáo các tên quan lại tàn ác và thế lực xấu xa, thi nhau chà đạp nhân phẩm con người. Chính chúng đã đẩy Thúy Kiều vào bước đường cùng, khiến nàng chịu nhiều đớn đau.
Khi gia đình nàng Kiều bị kẻ bán tơ vu oan, những người được cho là “phụ mẫu của dân” kia chẳng những không giúp đỡ mà còn ra sức vơ vét của cải. Bọn họ lấy danh nghĩa thi hành công vụ để rồi cướp bóc tài sản, bỏ ngoài tai bao lời van xin cùng tiếng khóc than kêu oan.
Những kẻ đại diện bộ máy chính quyền phong kiến ấy gieo rắc bao tai ương, bất hạnh cho một gia đình vô tội chỉ bằng chuyện “tai bay vạ gió”. Chính bọn họ đã lạm dụng chức quyền, bắt đầu chương đầu tiên trong kiếp đoạn trường của nàng.
Mở đầu và kết thúc mười lăm năm đau đớn mà Thúy Kiều phải trải qua đều có bóng dáng các vị quan vô lại, làm dụng chức quyền. Hành động của họ chẳng khác nào “tiền trảm hậu tấu”, khiến những người dân thấp cổ bé họng sống trong kiếp lầm than.
Thành ngữ Tiền trảm hậu tấu và đoạn trích Tức nước vỡ bờ
Tên tuổi Ngô Tất Tố gắn liền với những tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán. Tức nước vỡ bờlà một trong số đó, nằm ở chương XVIII của tiểu thuyết nổi tiếng Tắt đèn.
Bên cạnh việc khắc họa sự ngời sáng nơi tâm hồn chị Dậu, văn sĩ còn lên án tố cáo ách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp. Chính nó đã phủ màn đen u tối lên trên cuộc sống người nông dân, khiến họ rơi vào tình trạng nghèo đói, vất vả đến cùng cực.
Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã miêu tả một cách chân thực bản chất đê tiện của giai cấp phong kiến. Nếu như người nhà Lí trưởng còn e dè không dám làm hại anh Dậu vì chưa có lệnh từ cấp trên thì gã cai lệ lại hung hăng đòi tấn công.
“Người nhà Lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói.” – Tức nước vỡ bờ
Hành động ấy của hắn cũng giống như ý nghĩa thành ngữ “Tiền trảm hậu tấu”. Chính tên cai lệ không chút tình người này đã đẩy chị Dậu vào bước đường cùng.
Sự ngang ngược, hống hách ấy xuất phát từ chế độ cầm quyền man rợ của bọn thực dân phong kiến. Chúng coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng ra tay nếu nhân dân không nộp đủ các thứ thuế vô lý.
Chỉ qua vài trang viết, Ngô Tất Tố đã phơi bày bộ mặt xấu xa của quân xâm lược và bầu không khí làng quê ngột ngạt mỗi mùa sưu thuế. Đồng thời, tác giả còn gửi gắm vào đó cả nỗi niềm xót xương, đồng cảm đối với nỗi đau mà người nông dân trong xã hội xưa phải gánh chịu.
Cách cư xử tiền trảm hậu tấu của lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên
Nhân vật ông lão tội nghiệp ở truyện ngắn Lão Hạc do nhà văn Nam Cao chấp bút là hình tượng tiêu biểu của người nông dân trong xã hội xưa cũ. Tác giả đã dùng cả trái tim cùng bầu máu nóng để dệt nên những trang văn, câu chữ cảm động về kiếp sống lụi tàn.
Dưới cách miêu tả của nhà văn, lão Hạc hiện ra với những đức tính đáng quý. Ông không chỉ là người cha yêu thương con hết mực mà còn tốt bụng và giàu lòng tự trọng.
Vì không muốn đụng đến miếng đất để dành cho con trai cưới vợ, nhân vật chính đã giấu ông giáo mà quyết định dùng bả chó để kết thúc cuộc đời đau khổ. Mãi khi ông ra đi, người hàng xóm thân cận mới vỡ lẽ cách hành xử kỳ lạ trước đó của lão.
Hành động “tiền trảm hậu tấu” ấy của lão Hạc đã góp phần tô đậm đời sống nghèo nàn mà người nông dân phải trải qua thời trước. Sống trong xã hội xác xơ, tiêu điều là thế nhưng họ vẫn luôn cố gắng không đánh mất mình, gìn giữ phẩm chất tốt đẹp vốn có.