“Bóng chim tăm cá” là một thành ngữ gần gũi, từng xuất hiện trong kiệt tác Truyện Kiều của bậc đại thi hào Nguyễn Du. Nó được vận dụng để chỉ những thứ xa vời, khó có thể tìm kiếm hay thực hiện.

Ý nghĩa của thành ngữ Bóng chim tăm cá
Giống như nhiều thành ngữ khác, “Bóng chim tăm cá” cũng mượn hình ảnh các loài động vật là chim, cá hay bướm, ong ngụ ý chỉ sứ giả đưa tin tức. Theo Hán thư, người xưa thường buộc phong thư với chân chim nhạn hoặc bỏ vào bụng cá.
Từ cách lý giải này, lối nói đậm chất dân gian “Bóng chim tăm cá” dần được sử dụng rộng rãi với nghĩa bặt tin, không thấy bóng dáng đâu nữa. Ngoài ra, nó còn ám chỉ những điều phi thực tế, khó mà hiện thực hóa.
Ngoài thành ngữ ấy, văn học dân gian còn có nhiều cách diễn đạt khác để chỉ tin tức như “Tin ong sứ điệp” hay “Sứ giả chim hồng”.
Sự vận dụng “Bóng chim tăm cá” trong Truyện Kiều
Truyện Kiều được ví như áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút của bậc đại thi hào Nguyễn Du. Thấp thoáng trong tác phẩm là hình bóng văn học dân gian cùng lớp từ ngữ quen thuộc với lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Với đứa con tinh thần này, Nguyễn Du đã chọn lựa và chắt lọc lấy phần tinh túy nhất của ngôn ngữ nhân dân. Đây cũng chính là một nét đặc sắc ở phương diện nghệ thuật, giúp Truyện Kiều in sâu vào tâm hồn độc giả mọi tầng lớp.
Viết về cuộc đời người con gái “tài hoa bạc mệnh” Thúy Kiều, văn sĩ nhiều lần vận dụng thành ngữ và tục ngữ. Nguyễn Du luôn có ý thức gìn giữ cũng như kế thừa văn học dân gian bởi chúng chính là đại diện của hồn cốt dân tộc.
Ở hồi 21, tác giả đã sử dụng thành ngữ “Bóng chim tăm cá” để khắc họa tình cảnh trớ trêu giữa Thúy Kiều cùng Kim Trọng. Trong thế gian rộng lớn, niềm mong mỏi gặp lại người con gái mình yêu của chàng thư sinh ấy gần như là vô vọng.
“Nghĩ điều thăm thẳm vực sâu
Bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm.” – Truyện Kiều
Không chỉ vậy, sự hiện diện “Bóng chim tăm cá” trong câu thơ còn lột tả cả tâm trạng buồn rầu, bất lực của Kim Trọng. Chàng chẳng thể tìm được Thúy Kiều, đành để nàng lưu lạc suốt quãng thời gian dài.
Với đôi bàn tay nghệ thuật tài hoa, Nguyễn Du đã lay động độc giả mọi thế hệ bởi cuộc đời lắm sóng gió của Thúy Kiều. Từ đó, ông cất lên tiếng nói xót thương cho thân phận người phụ nữ, đồng thời lên án tố cáo xã hội phong kiến thối nát đương thời.
Sự chờ đợi đậm nét bóng chim tăm cá trong Lão Hạc
Cùng với Dì Hảo, Trẻ con không được ăn thịt chó và Một bữa no, Lão Hạc là một truyện ngắn giàu giá trị tố cáo hiện thực của Nam Cao. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1943, khắc họa chân thực tình cảnh nông thôn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám.
Tác phẩm xoay quanh cuộc đời khổ cực của lão Hạc, một người đàn ông nông dân nghèo. Vì không có đủ tiền cho con trai cưới vợ, nhân vật ấy phải bất lực nhìn anh đi phu đồn điền cao su.
Sống trong cảnh thiếu thốn đủ bề, thế nhưng lão Hạc chưa bao ngừng nghĩ suy và lo lắng cho con. Thậm chí, người cha ấy còn chấp nhận nhịn đói, nhất quyết không đụng đến mảnh đất dành dụm để anh cưới vợ.
Nỗi nhớ nhung luôn trào dâng và liên tục dày vò người đàn ông tội nghiệp. Lão Hạc nhiều lần bày tỏ với nhân vật ông giáo, mong ngóng ngày đứa con trai trở về.
Thế nhưng, nguyện vọng cao cả của ông chẳng khác gì “bóng chim tăm cá”, không thể trở thành hiện thực. Trước khi kịp gặp lại và chứng kiến con trai mình sống hạnh phúc, lão đã vĩnh viễn ra đi, rời bỏ cuộc sống đau khổ này.
Thông qua nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã tái hiện cuộc sống tối tăm và bần cùng của người nông dân xã hội đương thời. Họ suốt đời làm lụng nhưng chẳng đủ ăn, đến cuối cùng lại ra đi trong đau đớn, tủi nhục.
Không chỉ vậy, tác giả còn bộc lộ cả sự xót thương, đồng cảm trước cảnh ngộ của họ. Ông đã văn chương để cất lên tiếng kêu đòi quyền đình đẳng và bác, dựng xây nên một xã hội nơi mà mọi người đều được bao bọc bởi tình yêu thương.