“Tứ cố vô thân” là một thành ngữ không còn xa lạ trong lời ăn tiếng nói nhân dân Việt. Nó được sử dụng để chỉ những phận đời bất hạnh, cô đơn lẻ loi.

Ý nghĩa của thành ngữ Tứ cố vô thân
Thành ngữ dân gian này có cấu tạo gồm hai vế “tứ cố” và “vô thân”. Chúng đều mang yếu tố Hán Việt với tứ (bốn), cố (ngoảnh lại nhìn), vô (không có) và thân (thân thích).
Vì vậy, “Tứ cố vô thân” thường xuất hiện khi người nói muốn đề cập đến những ai không có cha mẹ hay bạn bè thân thích, phải sống cô độc một mình. Ngoài ra, nó còn được vận dụng nhằm diễn tả những nơi xa lạ, “đất khách quê người”.
Sự xuất hiện của thành ngữ Tứ cố vô thân trong Sống mãi với thủ đô
Nguyễn Huy Tưởng được biết đến như một cây bút có tầm vóc lớn của nền văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Xuyên suốt trong nhiều áng văn do ông chấp bút là cảm hứng lịch sử, vừa giàu sự lãng mạn lại đậm chất bi kịch.
Sống mãi với thủ đô cũng là một tiểu thuyết tiêu biểu cho phong cách văn học ấy của ông, được xuất bản lần đầu năm 1961. Nó như thước phim ghi lại hình ảnh con người cũng như khung cảnh thủ đô giai đoạn kháng chiến mùa đông 1946.
Trong đứa con tinh thần của mình, Nguyễn Huy Tưởng không tập trung vào một nhân vật cụ thể nào. Ngược lại, ngòi bút ông khắc họa nhiều mảnh đời cùng bức chân dung những người dân Hà Nội khác nhau.
Tuy có hoàn cảnh và xuất thân khác nhau, họ vẫn mang trong mình tình yêu thương thủ đô da diết. Ấy là một Trần Văn luôn nghĩ suy cho dân tộc hay tiểu thương tên Loan tỏ rõ sự bất bình với quân thù, quyết bảo vệ nước nhà.
Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện một cách chân thực khung cảnh mảnh đất kinh kỳ ngày xưa với những vẻ đẹp rung động lòng người. Tuy vậy, nó cũng là nơi chứng kiến nhiều số phận vất vả và bất hạnh.
Ở Sống mãi với thủ đô, tác giả đã vận dụng thành ngữ “Tứ cố vô thân” để diễn tả hoàn cảnh đau thương của ông số 6. Từ khi sinh ra, nhân vật này được định sẵn là kẻ cô đơn, mồ côi cha mẹ và không nơi nương tựa.
“Trong cái đời tứ cố vô thân của ông, quê quán, bố mẹ, anh em, ngay cả tên tuổi của mình, ông đều không biết.”- Sống mãi với thủ đô
Người đàn ông ấy có một tuổi thơ không mấy hạnh phúc, phải đi ở cho nhiều nhà và lang bạt khắp nơi. Thế nhưng, nhân vật này vẫn gìn giữ được một tâm hồn giàu lòng yêu thương, luôn biết ơn kẻ đã cưu mang mình.
Đây chính là phẩm chất tốt đẹp của những người con sinh ra trên đất thủ đô. Họ luôn sống với nhau bằng tấm lòng nhân ái, quyết tâm bảo vệ Hà Nội dấu yêu cho đến hơi thở cuối cùng.
Hoàn cảnh tứ cố vô thân của nhân vật Chí Phèo
Chí Phèo là một trong số truyện ngắn xuất sắc bậc nhất của tác giả Nam Cao. Nó được chấp bút vào năm 1941, tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống đau khổ mà người nông dân Việt Nam phải trải qua trước thời kỳ Cách mạng tháng Tám.
Dưới trang viết của Nam Cao, những bất công cùng áp bức từng đẩy người nông dân đến bước đường bần cùng hóa như hiện ra vằng vặc trước mắt độc giả. Họ không chỉ gánh chịu đòn roi đau đớn về mặt thể xác mà còn bị tước đoạt đi cả quyền sống và mưu cầu hạnh phúc.
Chí Phèo cũng không phải là ngoại lệ, bị những kẻ thuộc tầng lớp thống trị thi nhau chà đạp. Từ một chàng trai hiền lành khỏe mạnh, hắn dần trở thành”quỷ dữ” làng Vũ Đại khiến dân làng xa lánh, ghét bỏ.
Từ lúc sinh ra, Chí Phèo đã là đứa trẻ đáng thương không cha mẹ, một mình ở nơi lò gạch bỏ trống. Khi vừa tròn hai mươi tuổi, hắn lại bị nhà giàu đổ oan và đi tù đến bảy tám năm mới trở về.
“Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù.” – Chí Phèo
Đến lúc trở về làng, Chí Phèo như biến thành một con người khắc với vẻ mặt dữ tợn, đầu tóc trọc lốc. Hắn bắt đầu ăn vạ và trở thành tay sai cho tên Bá Kiến đã từng đẩy mình vào ngục tù.
Vẻ ngoài xấu xí cùng tính cách hung hăng của Chí Phèo khiến dân làng khiếp sợ, tìm mọi cách tránh xa. Hắn bị nỗi cô đơn ăn mòn, không còn tha thiết gì với cuộc đời cũng như những người xung quanh.
Tình cảnh ấy của nhân vật Chí Phèo cũng giống với câu thành ngữ “Tứ cố vô thân”. Kể từ khoảnh khắc xuất hiện trên đời, hắn đã là kẻ mồ côi cha mẹ, chẳng thể dựa dẫm hay trông cậy vào bất kỳ ai.
Đến cuối cùng, nhân vật ấy vẫn thức tỉnh, hối hận trước những gì mình từng làm. Hắn khao khát được hoàn lương và trở thành người bình thường, thế nhưng định kiến xã hội hà khắc đã dập tắt mong ước này của Chí Phèo.
Thông qua tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã lên án tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến khắc nghiệt. Chính nó khiến tầng lớp nông dân rơi vào hố sâu tuyệt vọng, hủy hoại nhân cách cao đẹp và tư cách làm người của họ.