Đức tính siêng năng và cần cù vốn là một truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại nhiều kẻ lười biếng, chỉ biết nằm chờ thành công mà không lao động.
Vì vậy, tục ngữ “Há miệng chờ sung” đã ra đời nhằm phê phán lối sống ích kỷ này, đồng thời nhắc nhở con cháu đời sau phải chăm chỉ lao động để tiến về phía trước.

Ý nghĩa của tục ngữ Há miệng chờ sung
Tục ngữ “Há miệng chờ sung” bắt nguồn từ một câu chuyện được lưu truyền phổ biến trong dân gian. Ngày xưa, có anh chàng tên Đại Lãn mồ côi cha mẹ nhưng tính tình lại lười biếng, chẳng chịu học hành hay làm lụng gì.
Vào ngày nọ, hắn đi ngang qua cây sung cao lớn, thỉnh thoảng quả lại rơi xuống đầy cả một vùng. Vốn là kẻ lười nhác, Đại Lãn nghĩ ngay ra kế nằm ngửa dưới gốc và há miệng thật to, chờ cho quả rụng thì ăn.
Thế nhưng không có quả sung nào rụng trúng miệng hắn, tất cả đều rơi chệch ra ngoài. Sau một quãng thời gian đợi chờ vừa đói lại mệt mỏi, Đại Lãn đành nuốt nước bọt thất vọng đứng dậy.
Tục ngữ “Há miệng chờ sung” ra đời từ đây, thường được nhân dân sử dụng để lên án những kẻ không chịu làm ăn, chỉ luôn chực chờ sự may mắn. Bên cạnh đó, nó còn có biến thể khác là “Đại Lãn chờ sung”, cũng mang ý nghĩa tương tự.
Nhân vật người chồng chỉ biết Há miệng chờ sung trong Dì Hảo
Dì Hảo nằm trong số truyện ngắn nổi bật viết về đề tài người phụ nữ nông dân trước thời kỳ Cách mạng tháng Tám. Với giọng điệu đau thương xen lẫn chua chát, Nam Cao đã tái hiện bi kịch của cả một phận đời.
Nhân vật trung tâm của truyện ngắn là dì Hảo, người có thật từng xuất hiện trong cuộc đời Nam Cao. Bà vốn lương thiện và đảm đang, luôn yêu thương và sẵn lòng hy sinh vì gia đình.
Thế nhưng, cuộc đời của dì Hảo lại đầy rẫy sóng gió và thử thách. Bà không chỉ mồ côi mẹ từ nhỏ mà còn phải gả cho người chồng luôn ghét bỏ, dùng những lời lẽ cay nghiệt để chà đạp mình.
Người đàn ông ấy là một kẻ tàn nhẫn và thô bỉ, ham mê cờ bạc cũng như rượu chè. Hắn không phụ giúp gia đình kiếm kế sinh nhai mà bắt dì Hảo phải làm lụng vất vả, thậm chí nhiều lần đánh đập vợ vì thiếu tiền.
“Hắn khinh dì là đứa con nuôi, còn hắn là con dòng cháu giống. Và tuy rằng nghèo xác, hắn nhất định không làm gì. Hắn lấy vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy, dì làm mà nuôi hắn.” – Hình ảnh người chồng nhẫn tâm bắt dì Hảo phải làm lụng vất vả để nuôi mình trong truyện ngắn Dì Hảo
Tính cách lười nhác, ngang ngược ấy của nhân vật người chồng không khác gì ý nghĩa câu tục ngữ “Há miệng chờ sung”. Hắn đã chẳng hoàn thành trọng trách trụ cột gia đình mà chỉ toàn gieo rắc vào đời vợ mình nhiều đau khổ và tổn thương.
Thành ngữ Há miệng chờ sung và Trẻ con không được ăn thịt chó
Bên cạnh Dì Hảo, Một bữa no hay Lão Hạc, Trẻ con không được ăn thịt chó cũng là một tác phẩm viết về thực trạng cuộc sống của tầng lớp nông dân trong xã hội cũ. Đứng trước cái đói, con người ta dường như đánh mất nhân tính, trở thành những kẻ xấu xa và tàn nhẫn.
Các nhân vật trong Trẻ con không được ăn thịt chó đều không có tên mà chỉ hiện lên với hoàn cảnh sống thiếu thốn đủ bề. Ấy là người đàn ông ham mê rượu chè, bất chấp đạo đức làm thịt cả chú chó đã gắn bó cùng gia đình mình.
Hành động vô nhân tính của hắn đã khiến cho vợ cùng đàn con thơ kinh hoàng và sợ hãi tột độ. Họ không thể tin người đàn ông ấy vì miếng ăn mà lại làm trái với lương tâm mình.
Chính bởi bản tính ham ăn lười làm, chỉ biết nghĩ cho bản thân đã khiến nhân vật ấy lâm vào con đường bần cùng hóa. Hắn không hề chăm lo gia đình mà “há miệng chờ sung”, đẩy trách nhiệm sang người vợ tội nghiệp.
“Cái số thị chẳng ra gì nên vớ phải một thằng chồng không biết lo, biết nghĩ, chỉ thích ăn, thích uống.” – Người vợ đau đớn và thất vọng trước người chồng lười nhác, không bao giờ cùng mình vun vén gia đình
Với Trẻ con không được ăn thịt chó, Nam Cao đã đóng góp cho nền văn học nước nhà một tác phẩm chân thực về cái đói và miếng ăn. Đồng thời, ông cũng lên án phê phán tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn đọng trong xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.