Nát như tương – Ý nghĩa và sự vận dụng của thành ngữ

Trong kho tàng văn học dân gian, thành ngữ cũng như tục ngữ có vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ thể hiện sự đa dạng và phong phú của Tiếng Việt mà còn chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc về hiện tượng, sự vật

Thành ngữ “Nát như tương” cũng là một trong số đó, được nhân dân vận dụng phổ biến để chỉ trạng thái nát vụn, đồng thời còn biểu thị sự hư hỏng, đổ nát của một tổ chức, thể chế.

Nát như tương
Nát như tương – Ý nghĩa và sự vận dụng của thành ngữ

Ý nghĩa của thành ngữ Nát như tương

Lối nói đậm chất bình dân được bắt nguồn từ phương pháp làm tương trong dân gian. Về cách chế biến loại nước chấm này, ông bà ta cũng có câu “xôi giặt ba ngày, đậu liền rang, chín tương hai muối ngọt như đàng”.

Ở quy trình này, hạt đậu phải trải qua ba lần chìm nổi khi ngâm, đến lúc thành tương có thể ăn được thì đã nát. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, ngoài “Nát như tương”, người dân cũng thường truyền tai nhau thành ngữ “Nát như tương bần”.

Như vậy, “Nát như tương” được dùng để chỉ những vật thể bị vụn vỡ và nát nhừ gần giống với thành ngữ “Nát như cám”. Tuy nhiên, nó còn mang ý nghĩa trừu tượng hơn, ngụ ý thể hiện sự xuống cấp, đổ nát của tổ chức.

Trong nhiều trường hợp, cách nói ấy còn chỉ trạng thái tinh thần ưu phiền, đau đớn tột độ. Ở phương diện này, đôi khi thành ngữ “Nát như tương” được thay thế bởi “Nát như tươm”.

Thành ngữ Nát như tương và thi phẩm Hủ nho lo việc đời

Sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, thơ ca Tản Đà được ví như chiếc gạch nối giữa văn học trung đại cũng như hiện đại. Ông xem nghệ thuật như nơi giãi bày tâm sự, ký thác vào trang viết cảm xúc của mình đối với hiện thực.

Hủ nho lo việc đời là một sáng tác tiêu biểu, thuộc tập thơ Khối tình con III ra đời vào năm 1932. Trong đứa con tinh thần này, thi sĩ đã thể hiện tâm trạng buồn bã, bất lực đến cùng cực của mình trước thế sự thối nát.

Xuyên suốt áng thơ là giọng điệu trào phúng và chua chát của một kẻ mang trong mình nhiều tâm sự. Ông lo lắng trước tình cảnh đất nước, đau đớn khi chứng kiến nhân dân khắp nơi đói khổ thế nhưng lại chẳng làm được gì.

Trong Hủ nho lo việc đời, để nhấn mạnh mức độ thối nát của xã hội đương thời, Tản Đà đã sử dụng cách nói “Nát như tương”. Thành ngữ xuất hiện khiến không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm mà còn giúp bài thơ trở nên gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân hơn.

“Lo vì thế cục nát như tương
Cái ruột tầm ai rối vẩn vương
Nhọn chẳng ăn ai, ngòi bút sắt
Cùng ai lo tính lúc đêm trường.” – Tản Đà mang vào bài thơ hình bóng của thành ngữ dân gian Nát như tương

Ở đây, tác giả đã tận dụng tối đa hiệu quả diễn đạt mà thành ngữ dân gian mang lại. Qua đó, ông gián tiếp phê phán hiện thực xã hội tăm tối cùng trạng thái bất lực, đau đớn của nhiều nghệ sĩ đương thời.

Sự vận dụng thành ngữ Nát như tương trong Anh đến thăm em

Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” của làng thơ Mới Việt Nam. Tác giả đã để lại cho đời nhiều thi phẩm dạt dào xúc cảm, thể hiện tấm lòng sâu sắc đối với tình yêu cùng cuộc đời.

Anh đến thăm em là một bài thơ đặc sắc về tình yêu, thuộc tập thơ Cầm tay được xuất bản năm 1962. Trong tác phẩm, Xuân Diệu đã tái hiện chân thực các cung bậc cảm xúc của chàng trai khi đến thăm người mình yêu, từ lo lắng, bồi hồi cho đến hạnh phúc, nhớ nhung.

Từng hình ảnh cùng câu chữ trong tác phẩm đều dung dị và tràn ngập tình yêu thương. Dường như thi sĩ đã đặt cả tâm hồn vào trang viết, cất lên những dòng thơ nói hộ tiếng lòng đang thổn thức của mình.

Hòa mình vào trong tác phẩm Anh đến thăm em, độc giả như được chứng kiến từng trạng thái cảm xúc của chàng trai. Nhân vật ấy yêu say đắm cô gái, sẵn sàng vượt quãng đường dài để đưa đón người mình thầm thương.

Dưới ngòi bút Xuân Diệu, chàng trai ấy mang trong lòng bao suy tư và tâm sự. Anh luôn muốn biết liệu rằng cô gái có tình cảm với mình hay không nhưng chẳng bao giờ thổ lộ thành lời, để rồi tự dằn vặt trái tim.

“Anh hỏi và anh chẳng nói ra,
Lòng nát như tương, héo như lửa.” – Nội tâm chất chứa nhiều suy tư và câu hỏi của chàng trai trong Anh đến thăm em

Trong dòng thơ khắc họa tâm trạng ưu phiền đau đớn, Xuân Diệu đã vận dụng thành ngữ dân gian “Nát như tương” kết hợp cùng cụm từ “héo như lửa”. Điều này khiến độc giả thấu hiểu một cách sâu sắc nỗi niềm của chàng trai, từ đó cảm nhận được sức ảnh hưởng mạnh mẽ và mãnh liệt mà tình yêu đem lại.

Thông qua Anh đến thăm em, Xuân Diệu đã bộc lộ sự khát khao đối với tình yêu. Đây cũng là một biểu hiện của lòng ham sống cuồng nhiệt, muốn được tận hưởng trọn vẹn từng giây phút có mặt trên cõi đời.

Bộ máy quan lại nát như tương trong Sống chết mặc bay

Là một cây bút hiện thực xuất sắc, Phạm Duy Tốn đã chấp bút nên nhiều áng văn đanh thép, sắc sảo phơi bày những vấn đề nhức nhối trong xã hội Việt Nam giữa thế kỉ XX. Các tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến là Con người Sở Khanh, Nước đời lắm nỗi hay Sống chết mặc bay.

Thông qua tác phẩm, Phạm Duy Tốn đã tái hiện chi tiết đến trần trụi thân phận nhỏ bé, hèn mọn của tầng lớp nông dân trong xã hội cũ. Đồng thời, ông còn bộc lộ cả thái độ phẫn uất trước bộ máy chính quyền quan lại tham lam, bất lương.

Bằng tài năng văn học cùng vốn sống sâu sắc, tác giả đã dựng nên một tình huống truyện độc đáo, ấy là nước sông Nhị Hà dâng cao. Trong hoàn cảnh đó, nhiều người dân phải chống chọi hàng giờ dưới mưa gió ngăn không để đê bị vỡ.

“Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X, thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất.” – Tình huống truyện gay cấn trong Sống chết mặc bay

Trái ngược với tình thế cấp bách đó là dáng vẻ ung dung, nhàn hạ của những viên quan phụ mẫu. Họ được ví như cha mẹ, có trách nhiệm chăm lo cho đời sống nhân dân, thế nhưng lại chẳng mảy may quan tâm đến con đê mà ngồi chơi tổ tôm.

Thậm chí, khi hay tin vỡ đê, những kẻ quan lại ấy còn nổi giận và thét tay sai đuổi người bẩm báo ra khỏi phủ. Chúng ngày càng lún sâu vào trò chơi tổ tôm, mặc cho dân chúng khổ sở chống dòng nước lũ.

“Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!” – Những tên quan lại trong tác phẩm dửng dưng trước tình thế vỡ đê nguy hiểm

Điều Này thể hiện sự xuống cấp “nát như tương” của những tên quan dưới thời thực dân Pháp. Với chi tiết ấy, Phạm Duy Tốn đã lên án tố cáo bộ máy cai trị thối nát và bất nhân, đẩy tầng lớp nông dân vào bước đường cùng.

Lên đầu trang