Công cha nghĩa mẹ – Ý nghĩa, điển tích và sự vận dụng

Lòng hiếu thảo là một phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam. Để con cháu đời sau sau gìn giữ cũng như phát huy truyền thống này, các thế hệ đi trước đã sáng tác và lưu truyền thành ngữ “Công cha nghĩa mẹ”.

Công cha nghĩa mẹ
Công cha nghĩa mẹ – Ý nghĩa, điển tích và sự vận dụng

Ý nghĩa của thành ngữ Công cha nghĩa mẹ

Cho đến tận bây giờ, “Công cha nghĩa mẹ” vẫn được sử dụng phổ biến để nhắc nhở mỗi cá nhân về tấm lòng của bậc sinh thành. Câu thành ngữ này có cấu tạo gồm hai vế mang ý nghĩa ngang bằng nhau là “công cha” và “nghĩa mẹ”.

Trong đó, “công” tức là những việc làm còn “nghĩa” tượng trưng cho tình cảm của cha mẹ đối với con. Họ đã hy sinh cả đời mình để nuôi dưỡng và vun vén gia đình, chỉ mong sao con cái được sống đủ đầy, an yên.

Thành ngữ “Công cha nghĩa mẹ” thường được sử dụng nhằm đề cao công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Vì vậy, con cái phải luôn khắc ghi điều này để phụng dưỡng và một lòng hiếu thảo với họ.

Ngoài ra, trong dân gian còn lưu truyền các thành ngữ khác cũng mang ý nghĩa tôn vinh công ơn của bậc sinh thành như “Chín chữ cù lao” hay “Sinh được một con, mất một hòn máu”.

Điển tích thành ngữ Công cha nghĩa mẹ

Thành ngữ “Công cha nghĩa mẹ” còn gắn liền với câu chuyện đầy cảm động về tấm lòng mẹ cha. Theo như dân gian truyền miệng, ngày xưa ở một làng nọ có đôi vợ chồng nghèo khó nhưng vô cùng thương con.

Hằng ngày, người chồng đều vào rừng kiếm củi và săn bắn những loài động vật nhỏ còn vợ thì trồng cây làm nương để nuôi dưỡng con. Thế nhưng bỗng một hôm, hai đứa trẻ sinh đôi không may bị bệnh nặng khiến họ vô cùng buồn rầu.

Từ ngày con lâm bệnh lại rơi vào cảnh nghèo nàn, người mẹ luôn buồn rầu và ngày càng gầy yếu khiến bầu sữa cạn kiệt dần. Vì quá thương gia đình, anh chồng đã quyết định mạo hiểm lên núi tìm cây thuốc sữa để cứu chữa cho con.

Mãi không thấy chàng quay trở về, vợ phải vắt kiệt bầu sữa còn lại rồi gửi con cho hàng xóm chăm sóc để tìm chồng. Người phụ nữ ấy đã một mình vượt qua bao dốc cao và vực thẳm, cuối cùng đành dựa lưng vào hòn đá to ven đường mà ngủ thiếp đi.

Bỗng nhiên hòn đá rung dữ dội và có âm thanh quen thuộc phát ra. Thoạt đầu, vợ vô cùng hoảng hốt nhưng nàng nhanh chóng nhận ra đó là tiếng vọng của người chồng đã không may gặp nạn, khóc nấc đi rồi gục đầu chết cạnh chàng.

Nước mắt của người vợ cứ tuôn mãi và trở thành dòng suối chảy suốt ngày đêm còn hòn đá kia cũng ngày càng to lớn. Tình thương con cái bao la ấy đã lay động thần Núi Sông, bèn hóa phép cho hai đứa trẻ ở nhà hết bệnh.

Khi lớn lên, hai anh em được dân làng kể cho nghe câu chuyện cảm động của bậc sinh thành. Họ bèn làm lễ cúng thần Núi và Sông, gửi về trời lời biết ơn cha mẹ mình.

Về sau, người dân trong vùng thấy ngọn núi ấy cao sừng sững nên đã đặt tên cho nó là núi Thái Sơn. Từ câu chuyện này, người dân đất Việt đã đúc kết nên thành ngữ “Công cha nghĩa mẹ” để giáo dục các thế hệ đời sau.

Thành ngữ Công cha nghĩa mẹ và truyện ngắn Nhà mẹ Lê

Nhà mẹ Lê là một trong số truyện ngắn nổi bật khai thác đề tài tình mẫu tử của Thạch Lam. Với giọng điệu nhẹ nhàng xen lẫn xót xa, văn sĩ đã bộc lộ niềm thương cảm đối với những mảnh đời bất hạnh.

Xuyên suốt tác phẩm là những lời văn khắc họa tình yêu thương của mẹ Lê dành đối với tổ ấm nhỏ. Bà nỗ lực làm lụng vất vả, hy sinh cả tuổi xuân quý báu để chăm sóc cho mười một đứa con thơ.

Đối với người phụ nữ này, được bên cạnh và nhìn con lớn lên mỗi ngày là niềm hạnh phúc lớn lao nhất cuộc đời bà. Mẹ Lê quan tâm đến từng điều nhỏ nhặt trong cuộc sống của những đứa trẻ, chỉ mong sao chúng thoát khỏi cái nghèo khó.

Trong trang viết nhà văn Thạch Lam, tình yêu thương con của mẹ Lê đã vượt lên cả hiện thực tàn khốc. Bà thậm chí đánh đổi tính mạng mình để đổi lấy cho đàn con thơ bữa cơm no.

“Bác nhớ lại những buổI đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.” – Mẹ Lê đã dành cả cuộc đời của mình để vun vén và nuôi dưỡng mười một đứa con thơ

Tình mẫu tử thiêng liêng trong Nhà mẹ Lê cũng giống như ý nghĩa câu thành ngữ “Công cha nghĩa mẹ”. Với tư cách là bậc sinh thành, người phụ nữ tần tảo đã làm mọi cách để bảo vệ và mang lại hạnh phúc cho đàn con, trở thành biểu tượng đẹp đẽ về tấm lòng bao la của mẹ cha.

Tình cha nghĩa nặng trong tác phẩm Lão Hạc

Lão Hạc nằm trong số ít tác phẩm viết về tình phụ tử, ra mắt công chúng lần đầu vào năm 1943. Thông qua cuộc đời lão Hạc, Nam Cao đã tái hiện cuộc sống đau khổ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời bộc lộ cả nỗi niềm đồng cảm đối với họ.

Nhân vật lão Hạc hiện lên với hoàn cảnh vô cùng tội nghiệp khi vợ mất từ sớm. Đến lúc về già, ông đành phải chứng kiến đứa con trai duy nhất đi đồn điền cao su, một mình cô đơn nơi quê nhà.

Khi bị cuộc đời xô đẩy vào bước đường cùng, Lão Hạc vẫn một lòng lo nghĩ vì tương lai của con trai. Dù phải ăn uống tạm bợ sống qua ngày, ông nhất quyết không đụng đến mảnh đất để dành cho anh lấy vợ.

“Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn: cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào.” – Lão Hạc sẵn sàng hy sinh mình để giữ nguyên vẹn tài sản cuối cùng cho con trai

Tuy mồ côi mẹ nhưng anh con trai vẫn cảm nhận được sự ấm áp từ gia đình cùng tấm lòng bao la đậm chất “Công cha nghĩa mẹ” của lão Hạc. Thông qua chi tiết này, Nam Cao đã ngợi ca sức mạnh mà tình phụ tử mang lại, dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu.

Lên đầu trang