Trương Hán Siêu là danh sĩ nổi tiếng, sống và hoạt động vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười ba. Ông được biết đến như một danh nhân văn hóa có tầm ảnh hưởng to lớn với nhân dân trong triều đại nhà Trần.
Trương Hán Siêu đương thời còn đóng vai trò là một chính trị gia, cố vấn cho Hưng Đạo Vương, góp phần để lại những cột mốc chói lọi trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tiếng vang của Trương Hán Siêu ở thời đại huy hoàng nước Việt
Trương Hán Siêu quê ở huyện Yên Ninh, phủ Trường Yên, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Ông là vị quan dưới thời Trần, trải qua bốn đời vua và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng.
Nhờ sự tài ba xuất chúng, ông rất được triều đình trọng dụng. Năm 1308, vua Trần Anh Tông phong Trương Hán Siêu làm Hàn lâm học sĩ. Đến năm 1314 phong chức Hành khiển, chức quan thường chỉ giao cho người trong tôn thất.
Dưới đời vua Trần Hiến Tông thì làm Hữu ty lang trung, khoảng ba năm sau, Trần Dụ Tông phong cho Trương Hán Siêu chức Tả ty lang trung kiêm Kinh lược sứ ở Lạng Giang. Đến năm 1345, ông được thăng làm Tả gián nghị đại phu.
Không lâu sau đó, ông làm Tham tri chính sự, ngang với chức Thượng thư lúc bấy giờ. Năm 1353 dưới thời Trần Dụ Tông, quân Chiêm Thành ập vào cướp đất Hóa Châu, hiện là Thừa Thiên Huế.
Vùng đất này vào năm 1306 đã được người Chiêm cống nạp cho nước Đại Việt thay cho sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Bấy giờ họ lại lật mặt trắng trợn, xông vào cướp lại Hoá Châu.
Vua liền cho gọi Trương Hán Siêu vào để bày mưu tính kế và đánh đuổi quân Chiêm. Ông lãnh quân Thần sách ra trấn nhậm ở Hóa Châu nhằm giữ đất, dưới sự chỉ đạo cùng kế sách sáng suốt, Đại Việt đã bình ổn trở lại.
Trương Hán Siêu vừa là thi sĩ, vừa uyên thâm chuyện chính sự lại có tính tình cương trực, học vấn sâu rộng nên các vua Trần luôn kính trọng, gọi bằng thầy chứ không gọi tên húy.
“Nhà vua chỉ gọi ông là thầy chứ không gọi tên.” – Đại Việt sử ký toàn thư
Trương Hán Siêu là vị quan giàu lòng yêu nước, có đóng góp to lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược. Ông từng tham dự hai lần cuộc chiến chống quân Nguyên Mông, để lại tiếng vang lớn thời nhà Trần bởi chiến công hiển hách.
“Lập được nhiều công trạng trong hai trận đánh giặc Nguyên.” – Trần Văn Giáp (Lược truyện các tác gia Việt Nam)
Sau khoảng thời gian miệt mài cống hiến cho đất nước, Trương Hán Siêu cáo bệnh về nghỉ nhưng chưa đến kinh sư thì ông qua đời, vua cho truy tặng hàm Thái bảo.
Đến năm 1363, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng chức Thái phó và thờ tự Trương Hán Siêu ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, ngang với các bậc hiền triết lúc bấy giờ.
Cái bóng của Trương Hán Siêu trên nền văn học trung đại thời Trần
Là người văn võ song toàn, Trương Hán Siêu đã trở thành danh sĩ nổi tiếng trên nền văn học trung đại Việt Nam. Ông được xem là nhà văn hoá lớn bởi các tác phẩm văn chương đều có sức ảnh hưởng trong thời đại.
“Trương Hán Siêu là ông quan văn học vượt hẳn mọi người.” – Ngô Sĩ Liên
Trương Hán Siêu đã để lại nhiều trang thơ nổi tiếng như Cúc hoa bách vịnh, Hoá Châu tác, Dục Thuý sơn, Quá Tống đô. Không chỉ để ngòi bút anh hùng dệt lên những lầu thơ tuyệt đỉnh, ông còn dùng nó viết nên các áng văn chương lưu danh thiên cổ.
Về văn xuôi, vị quan này có hai bài viết bằng chữ Hán Khai Nghiêm tự bi ký, Dục Thuý sơn linh tế tháp ký. Các tác phẩm ra đời đều thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, tự hào về lịch sử truyền thống hào hùng, vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Theo cổ sử ghi lại, Trương Hán Siêu đã từng ghé đến và đặt tên Dục Thuý Sơn cho một ngọn núi, hiện nay người dân hay gọi là núi Non Nước. Sinh thời ông đã từng có khoảng thời gian dài gắn bó và để lại nhiều ấn tích ở đây.
Tại Dục Thúy, dưới triều vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng tháp Linh tế thờ Phật, sau đó bị đổ. Đến năm 1337 thì xây dựng lại, lúc khánh thành, trụ trì Trí Nhu đã mời Trương Hán Siêu viết bài ký.
Năm 1343, vào triều vua Trần Dụ Tông, bài Dục Thuý sơn Linh tế tháp ký đã ra đời bằng một cách vô cùng đặc biệt, đó là điêu khắc lên vách đá sườn núi bởi sự sáng tạo đỉnh cao và ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu.
Đây có thể xem là bài ký đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam được khắc trên vách núi. Bắt đầu từ đó, nhiều tao nhân, mặc khách đã ghé đến và cho ra đời nhiều áng văn, thơ trên Dục Thuý Sơn.
Tác phẩm Dục Thuý sơn Linh tế tháp ký ra đời đã ghi dấu ấn, góp phần phát triển giá trị văn hoá nghệ thuật của địa phương. Qua đó, độc giả có thể thấy được tinh thần yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của vị quan tài ba.
Lại nói đến tác phẩm Quá Tống đô, đây là minh chứng rõ nhất cho thấy Trương Hán Siêu đã từng đến thăm nhà Tống, vương triều được đánh giá rằng “bi kịch” nhất Trung Hoa.
Qua đó, bạn đọc có thể thấy được tư tưởng hoà bình với nước láng giềng, trong đó bao hàm cả tấm lòng nhân ái đầy tính nhân văn khi thấu hiểu nỗi đau đớn, bất hạnh của người dân nước Tống lúc bấy giờ.
Ngoài ra, ông còn biên soạn Linh tế thập ký, Quang nghiêm tự bi văn để đề cao Nho học, phê phán Phật giáo. Tuy nhiên, tác phẩm thực sự để lại danh tiếng của Trương Hán Siêu trên nền văn học trung đại Việt Nam thời Trần là kiệt tác Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng).
Dù ở thể loại văn học nào, ông cũng thể hiện được sự tài năng trong phong cách nghệ thuật của chính mình. Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi cũng đã dành đôi lời có cánh khi nhận xét về bút pháp Trương Hán Siêu.
“Nghệ thuật ngôn ngữ của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng man mác ở trong thơ, gân cốt, chắc nịch trong phú, uyển chuyển, mềm mại trong ký; nhưng ở cả ba thể loại đó lại đều có chung một đặc điểm: sự vận dụng hình dung từ nổi lên đậm nét, song mặt khác không bao giờ rơi vào thái quá.” – Nguyễn Huệ Chi
Gia tài văn chương tuy bị thất lạc theo thời gian nhưng một số tác phẩm như Dục Thúy sơn Linh tế tháp ký, Bạch Đằng giang phú đã ngầm khẳng định tiếng vang lẫn cái bóng to lớn của Trương Hán Siêu trên chặng đường văn học trung đại thời Trần.
Bạch Đằng giang phú như áng thiên cổ hùng văn sáng ngời
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một kiệt tác, một áng thiên cổ hùng văn sáng ngời trên nền văn học Việt Nam, được xem như tác phẩm tiêu biểu và có tiếng vang trong thời đại Lý Trần.
“Ở góc độ văn hóa, Trương Hán Siêu sáng tác rất nhiều tác phẩm văn chương, thơ phú, trong đó nổi tiếng nhất là Bạch Đằng giang phú. Đây cũng là tác phẩm được xem là đỉnh cao của thể Phú trong văn học và là áng Thiên cổ hùng ca trong lịch sử văn học Việt Nam.” – PGS.TS Trịnh Sinh
Bạch Đằng giang phú được giới chuyên môn xem như đỉnh cao nghệ thuật thể phú trong văn học, không đơn giản chỉ thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả trong việc đề cao vai trò, vị trí của con người.
Bài phú chữ Hán nổi tiếng bậc nhất thời Trần còn lưu truyền đến nay bởi nó là áng hùng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết chiến thắng trận Bạch Đằng của hai vị thánh quân Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông.
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.” – Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những vấn đề cốt lõi đã tạo nên sự bất tử, khiến tác phẩm trường tồn theo thời gian là nỗi lòng Trương Thăng Phủ xoay quanh vận mệnh triều Trần, sâu xa hơn nữa là non sông Đại Việt.
Theo địa lý thì sông Bạch Đằng do sông Đá Bạc, sông Giá và nhiều nhánh sông khác đổ vào. Núi Tràng Kênh tựa bên bờ phải, bên trái thì có rừng bao bọc và tạo nên thế hiểm yếu, thích hợp làm vị trí bày binh bố trận đánh giặc.
Khi xưa, Bạch Đằng là địa danh lịch sử rất nổi tiếng ở huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn. Ngoài việc có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng, nó còn được biết đến bởi vẻ đẹp thiên nhiên kì vĩ.
“Mặt trời chiếu vào hang Dương Cốc là kỳ quan của vũ trụ – Vượng khí núi sông thu tụ ở sông Bạch Đằng.” – Phạm Sư Mạnh
Thi tứ Bạch Đằng giang phú viết theo hình thức đối đáp giữa chủ và khách. Trong đó, khách là người yêu thiên nhiên, có thú thưởng ngoạn phong cảnh, mang tâm hồn khoáng đạt.
Người khách đó đã tìm đến bến sông không chỉ dừng ở tình yêu thiên nhiên mà còn vì ngưỡng mộ, kính cẩn nghiêng mình trước nơi có những chiến công oanh liệt, khát khao được thả hồn giao thoa với lịch sử dân tộc.
“Cửa sông xung yếu do trời đặt ra – Hai người chống được trăm người – Những bậc anh hùng từng lập công ở đất này…” – Nguyễn Trãi
Có lẽ, người khách đã noi theo Tư Mã Thiên hay còn gọi Tử Trường, một sử gia nổi tiếng ở Trung Quốc. Ông sống thời nhà Hán và luôn hết mình vì lịch sử dân tộc, nối nghiệp chép sử của tổ tiên, tìm về cội nguồn để hoàn thành công trình Sử ký.
Còn người chủ là những bô lão sống lâu năm đã chứng kiến sự kiện lịch sử oanh liệt hoặc từng tham gia đánh trận. Tuy nhiên, cũng có thể là nhân vật hư cấu mà Trương Hán Siêu xây dựng để dễ dàng bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ về thế cuộc.
Với mỹ cảm tinh tế, sự hoá thân vào nhân vật đã giúp Trương Hán Siêu thành công trong việc khắc họa bức tranh sống động về những trận chiến oai hùng, máu lửa trong lịch sử dân tộc.
“Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.” – Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Với những câu đối đáp chặt chẽ, hàng loạt hình ảnh hùng dũng được tái hiện qua từng con chữ đã khiến bài phú trở nên sinh động hoà với không khí trận mạc quyết liệt trên sông Bạch Đằng.
Đắm chìm trong sự hoài niệm, nhân vật đã sử dụng điển tích điển cố để so sánh sức mạnh quân đội ta với trận chiến nổi tiếng thời Tam Quốc khi xưa. Qua đó thể hiện niềm tự hào dân tộc sâu sắc, không chỉ ở chiến công mà còn vì đóng góp to lớn của các bậc đế vương.
Ngoài việc tái hiện lịch sử vẻ vang của dân tộc, ca ngợi tầm vóc quân đội, Bạch Đằng giang phú còn chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc. Điều đó bộc lộ khi áng văn chứa đầy nỗi xót xa dành cho những người anh hùng đã ngã xuống vì giang sơn Đại Việt.
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Đến bên sông chủ hổ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.” – Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Với những chiến công hiển hách, bến sông Bạch Đằng đã trở thành nguồn cảm hứng văn chương cho nhiều thi sĩ đương thời. Về sau, Nguyễn Trãi cũng có nỗi buồn riêng khi chứng kiến chiến tích lịch sử của dân tộc ta.
“Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,
Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?” – Bạch Đằng hải khẩu (Nguyễn Trãi)
Bằng ngòi bút tài hoa, xuất sắc vượt thời đại, Bạch Đằng giang phú là bức tranh sống mãi theo thời gian với vẻ đẹp kì vĩ mang giá trị lịch sử, nhân văn và chất chứa những triết lí sâu xa.
“Bạch Đằng giang phú thể hiện lòng yêu nước và tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc. Bài phú này của Trương Hán Siêu gần như thay mặt cả dân tộc nói về sự vươn dậy của cuộc chiến tranh và công sức lớn lao của nhà Trần cũng như toàn dân tộc lúc bấy giờ.” – PGS.TS Triệu Thế Việt- Trường ĐH KHXH&NV
Từ ẩn chứa niềm tự hào về tầm vóc người anh hùng thời Trần, tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc đến tư tưởng nhân văn sâu sắc, Bạch Đằng giang phú đã trở thành áng thiên cổ hùng văn sáng ngời hào khí Đông A.
Tình yêu thiên nhiên và đất nước hòa trong thơ văn của Danh nhân
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng thu hút thi sĩ, giúp tâm hồn họ thăng hoa. Hiếm ai có thể thờ ơ trước vẻ đẹp tạo hoá ban tặng và Trương Hán Siêu cũng vậy, ông muốn trở thành lữ khách để trải nghiệm, hoà mình vào cảnh quan kỳ thú của đất nước.
Trong tình yêu thiên nhiên, non nước trong ông không đơn giản “thưởng nguyệt xem hoa” mà lại mang nỗi niềm khao khát hòa mình vào đất trời để có cảm nhận tường tận nhất.
Các trang viết của Trương Hán Siêu đều gợi tả bức tranh phong cảnh đa màu sắc. Qua đó, tác giả “tức cảnh sinh tình”, từ tình yêu thiên nhiên hoà vào tấm lòng dành cho đất nước.
Thiên nhiên ở bến sông Bạch Đằng trong đôi mắt của Trương Hán Siêu không đơn giản với khung cảnh được bày trí sẵn mà đó là cảnh đẹp được tạo dựng từ ngàn đời, trải qua biết bao thăng trầm lịch sử.
Cái vẻ thơ mộng, hữu tình ở nơi ông quan sát, trước kia đã diễn ra các trận đánh oanh liệt của các bậc anh hùng trứ danh lịch sử. Từ đó, trong thâm tâm Trương Hán Siêu dấy lên niềm tự hào dân tộc mãnh liệt.
Với thể loại phú, các tác giả thường hoá thân vào nhân vật “khách” để đứng ở góc độ người thưởng thức nhằm có được tầm nhìn khái quát mà giãy bày tâm tư, Trương Hán Siêu cũng không ngoại lệ.
Trong vai một người lữ khách, ông đã thoải mái thể hiện tâm hồn phóng khoáng với tình yêu thiên nhiên tha thiết, lấy việc du ngoạn bốn phương làm cái thú tiêu giao ở đời, tự do tự tại giao cảm với cảnh đẹp non sông.
“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.” – Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Đầm Vân Mộng là danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Trung Quốc, vậy mà nhân vật khách “chứa vài trăm trong dạ” từng ghé nhiều nơi có cảnh đẹp tương tự nhưng vẫn chưa thấy thỏa lòng, tâm hồn còn muốn phiêu bạt bốn phương.
Với ngòi bút tài hoa, tác giả đã thành công vẽ lên bức tranh phong cảnh hữu tình, thơ mộng làm say đắm lòng người. Tuy nhiên sau đó, câu thơ bỗng chốc biến đổi, không gian dường như đứng lại rồi nhanh chóng chìm vào quá khứ.
“Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.” – Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu)
Chỉ qua hai câu thơ, Trương Hán Siêu đã khiến sông Bạch Đằng bỗng chốc thoát khỏi vẻ đẹp yêu kiều, trữ tình mà mang tầm vóc hào hùng của hai trận đánh oanh liệt trong lịch sử nước Nam.
Với tài năng thiên phú, ông đã vẽ lên bức tranh sóng đôi bằng con chữ vừa tình nhưng cũng không kém phần hừng hực hào khí Đông A trong lịch sử dân tộc cùng chống quân xâm lược.
Một dòng sông nhưng lại mang hai màu sắc, vẻ đẹp khác nhau, không chỉ có nét cổ kính, làm say mê lòng người mà từng cái cây, ngọn cỏ nơi đây còn đóng vai trò “nhân chứng sống” cho hai cuộc kháng chiến của nước nhà.
Trương Hán Siêu đã dùng đôi mắt say mê cảnh sắc thiên nhiên để vẽ nên bức tranh Bạch Đằng nhưng cũng dùng tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc để “tái sinh” thời khắc lịch sử huy hoàng, thổi hồn cho tác phẩm thêm sinh động.
Từ góc độ văn hoá đến góc nhìn về vị quan xuất chúng Trương Hán Siêu
Thời Trần, Nho giáo đóng vị trí quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, văn hoá. Với trí thông minh vốn có, mang nhân cách và tư tưởng cao đẹp, Trương Hán Siêu lúc bấy giờ là một nhà nho chân chính, được người đời kính trọng.
Xuôi theo dòng lịch sử, vào thế kỷ thứ mười, Phật giáo ở Việt Nam rất được tôn sùng và phát triển rực rỡ bởi nó đóng vai trò tích cực trong đời sống văn hóa, tư tưởng dân tộc.
Cụ thể về sự thịnh vượng của tôn giáo này, vua Trần Thái Tông khi tròn bốn mươi tuổi đã nhường ngôi vị cho thái tử để xuất gia, các vị hoàng thân, quốc thích cũng tìm đến cửa Phật để nương tựa.
Nhà nước phong kiến bấy giờ đã bảo hộ và chăm lo đến sự hưng thịnh của tôn giáo này. Dân chúng rất nhiều người đến với đạo Phật, bày tỏ lòng thành kính, tôn sùng.
Khi ấy, hiện tượng tam giáo đồng nguyên đã trở thành xu thế của thời Trần, đó là sự dung hợp hài hoà giữa ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo. Điều này gây tác động không ít đến tư tưởng chính trị, văn hóa đương thời.
Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ mười hai đến đầu thế kỷ mười ba, Phật giáo dần sa sút cùng với việc nhà Trần lâm vào khủng hoảng đã dẫn đến cuộc tranh giành vị thế độc tôn giữa Nho giáo và Phật giáo trong xã hội.
Nhiều sử gia cho rằng Trương Hán Siêu là người đầu tiên lên tiếng phê phán vấn đề “sư không ra sư” hay việc lợi dụng danh nghĩa đạo Phật để mưu cầu lợi lộc, chiếm đất đai, xây nhiều chùa chiền làm tốn kém tiền của bá tánh.
Ông nói rõ vấn đề này trong Văn bia chùa Khai Nghiêm và Dục Thúy sơn Linh tế tháp ký để thể hiện sự bài xích, thế nhưng chỉ nhắm đến những đối tượng lợi dụng tôn giáo vì mục đích cá nhân chứ không chống lại giáo lý.
“Đến cuối đời Trần, cuộc xung đột giữa Nho và Phật bắt đầu. Những nhà nho có tiếng lúc bấy giờ như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu… đã lên tiếng phê phán và bài xích Phật giáo.” – Sách Lịch sử Việt Nam tập 1
Có lẽ vì sự suy thoái của đạo Phật nên con đường dẫn đến vị trí độc tôn của Nho giáo vào thế kỷ mười lăm đã được tiên phong bởi những bậc trí giả như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sinh thời Trương Hán Siêu tuy bài xích Phật giáo nhưng vua không trách cứ mà còn bổ làm quản tự cho một ngôi chùa lớn. Có lẽ vì ông nhận thấy được những yếu tố tích cực tác động lên đời sống tinh thần của con người.
Hơn cả, ngay từ ban đầu Trương Hán Siêu lên tiếng phê phán những người dùng danh nghĩa Phật giáo để trục lợi chứ không hề phản bác giáo lý thanh sạch, từ bi, hỷ xả, hướng chúng sinh đến điều tốt đẹp hơn.
Thế nên, việc triều đình cử đến quản lý chùa Quỳnh Lâm càng chứng tỏ ở thời điểm đó, vua tôi rất tin tưởng và tín nhiệm ông trong việc trông coi “bảo ngọc” quốc gia.
Đời sống xã hội xoay quanh danh nhân Trương Hán Siêu
Dưới triều Trần Dụ Tông, năm 1341, ông cùng Nguyễn Trung Ngạn soạn hai bộ sách lớn là Hoàng triều đại điển và Hình thư, đặt nền tảng cơ sở pháp chế cũng như lý luận cho việc vận hành, thực thi pháp luật trong xã hội phong kiến.
“Hoạt động pháp chế của nhà nước cũng được tăng cường. Sau nhiều lần sửa đổi và bổ sung, nhà Trần biên soạn một bộ luật mới gọi là Hình thư.” – Sách Lịch sử Việt Nam tập 1
Qua việc biên soạn cuốn Hoàng triều đại điển, Trương Hán Siêu cũng đã góp công trong việc đưa các quy định phép tắc, lễ nghi của triều đình vào nề nếp hoạt động.
Sinh thời, ông rất được triều đình trọng dụng, theo chính sử, Trương Hán Siêu xuất thân là môn khách, gọi cách khác là cố vấn chính của Hưng Đạo Vương nhưng giấu mặt khi Trần Ích Tắc chưa trốn theo quân Nguyên.
Sau khi Trần Ích Tắc bại lộ thì Trương Hán Siêu mới ra mặ,t ngày đêm bàn việc triều chính cùng vua. Ông cống hiến nhiều sách lược để đánh đuổi giặc Nguyên Mông mà sau này được phản ánh trong tác phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo.
Kế hoạch lấy không đánh có, vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều được phổ biến đến làng xã, hướng dẫn cho nhân dân thực hiện một cách gấp rút khi nhận hiệu lệnh từ triều đình.
“Đối với đội quân lớn đánh đâu thắng đó, vó ngựa chinh phục khắp Nam Bắc, Đông Tây như thế thì phải làm vườn không nhà trống, lấy ít địch nhiều, lấy nhu thắng cương, và Trần Hưng Đạo là một trong những thiên tài quân sự cũng đã tiếp thu và đã thắng hai trận, đuổi được quân xâm lược Nguyên Mông.” – Đại Việt sử ký toàn thư
Đương lúc Trương Hán Siêu còn sống, bọn quan gian không dám lộng hành nhưng khi ông mất, Phạm Ngũ Lão cũng ra đi, chốn quan trường trở nên lộn xộn. Một mình Chu Văn An không đủ sức đối phó nên đành cáo quan về quê dạy học.
Tuy nhiên, cuộc đời đầy ánh hào quang như Trương Hán Siêu không hẳn không có những sai lầm, khuyết điểm. Cụ thể là trong lúc giữ chức quan Hành khiển, ông từng tố oan cho hai hình quan với tội danh ăn hối lộ.
“Một hôm, Siêu nói trong triều rằng hình quan Phạm Ngộ và Lê Duy ăn hối lộ. Vua lập tức sai điều tra. Hán Siêu nói kín với người khác: Tôi làm việc ở triều đình được chúa thượng tin dùng cho nên mới nói thế, biết đâu lại có chuyện tra xét này… Đến khi tra hỏi, Hán Siêu đuối lý phải phạt 300 quan tiền.” – Đại Việt sử ký toàn thư
Sinh thời, Trương Hán Siêu nổi tiếng cao ngạo, theo Đại Việt Sử ký toàn thư ghi chép, ông khinh bỉ, không giao du với người cùng hàng, gặp quan thầy thuốc thì đùa cợt, cho rằng những kẻ đó không đồng điệu với mình.
Tuy nhiên, khi được giao đến Lạng Giang để trông coi thì ông đã gả con cho tù trưởng vùng đất ấy. Lúc coi sóc chùa Huỳnh Lâm lại để con gái kết duyên cùng tam bảo nô Nguyễn Chế. Khi ấy, người đời chê cười, cho rằng Trương Hán Siêu vì mộ sự giàu có của họ nên làm vậy.
“…Trương Hán Siêu là ông quan văn học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả…” – Đại Việt sử ký toàn thư
Lí giải về điều tiếng mắc phải, các nhà nghiên cứu sử học cho rằng Trương Hán Siêu không giao du với bạn bè cùng lứa đều có cớ sự. Trước đây, họ cùng học với ông tại trường của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, nơi đào tạo nhân tài cho triều đình.
Lúc bấy giờ, ông là học trò xuất sắc nên được giao dạy lại cho các môn đệ. Tuy nhiên, trưởng tràng Nguyễn Văn Long nảy sinh lòng ganh tị, bày mưu ám sát Trần Ích Tắc rồi vu oan khiến Trương Hán Siêu phải đào tẩu, ẩn nấp trong các hang động ở Ninh Bình.
Khi bị vu oan giá họa thì những người cùng hàng đã hùa nhau công kích kết tội, khiến ông rơi vào tình cảnh khốn đốn trong thời gian đó. Chuyện này ít ai biết vì Trương Hán Siêu tha thứ nhưng ngược lại sẽ không nói chuyện hay kết thân.
Còn chuyện Trương Hán Siêu gả con gái cho các tù trưởng không phải vì tham danh hám lợi mà do muốn kết giao với bộ tộc giữ biên cương theo chính sách nhà Trần thời bấy giờ.
Năm 1354, dưới thời vua Trần Dụ Tông, Trương Hán Siêu qua đời. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau mười tám năm từ ngày ông mất, vua Trần Nghệ Tông cho tòng tự ở miếu Khổng Tử tức Văn miếu Quốc Tử Giám.
Tuy nhiên, việc Trương Hán Siêu được thờ tự ngang với các bậc hiền tài quốc gia như Chu Văn An khiến dấy lên nhiều luồng ý kiến trái chiều, phản đối và cả tán thành.
“Nghệ hoàng ban cho Hán Siêu được tòng tự ở Văn Miếu vì ông ta hay bài xích dị đoan chăng? Nhưng xét ra ông ta là người cậy tài, kiêu ngạo… Khổng Tử nói: Dẫu tài giỏi đến như Chu Công mà kiêu ngạo và keo bẩn thì những gì còn lại cũng chẳng ra sao. Tôi nghĩ, Hán Siêu hiền tài nếu có thiêng, hẳn không dám dự thờ ở miếu Khổng Tử.” – Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên)
Tuy nhiên, theo ghi chép của sử gia trong Đại Việt sử ký toàn thư, vào khoảng thế kỷ thứ mười tám, Trương Hán Siêu không còn được thờ ở Văn Miếu nữa còn lý do thì không ai nhắc đến.
“Nay ở giải vũ phía Tây vẫn thấy thờ Chu Văn Trinh, còn Hán Siêu, Tử Bình đã bỏ đi, không biết từ thời đại nào. Cũng thấy được lẽ trời lòng người công bằng, há nhất thời có thể nâng lên đè xuống được sao!” – Ngô Sĩ Liên
Đã gần bảy thế kỷ trôi qua nhưng những mốc son chói lọi của Trương Hán Siêu vẫn trường tồn với thời gian. Có lẽ vì nó lấp lánh tấm lòng trung hiếu cũng như tâm huyết mà cả đời ông dốc tâm phục vụ đất nước.
Giai Kỳ
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất