Trong lịch sử văn học Việt Nam, nếu Nguyên Hồng là nhà văn hiếm gặp ngay từ những năm tháng tuổi trẻ đã xác định cả đời mình gắn bó với nghiệp viết thì Hoài Thanh là một tác giả nổi tiếng đã chọn con đường phê bình văn học từ rất sớm và chung thủy với nó một cách sâu sắc, tròn vẹn.
Ở Hoài Thanh đặc biệt nhất có lẽ là chuyên phê bình thơ và dần từng bước trở thành một biểu tượng phê bình văn học Việt Nam, tạo được lòng tin vững chắc nơi độc giả và người sáng tác.
Hoài Thanh và đôi nét về thuở thiếu thời
Hoài Thanh sinh năm 1909, mất năm 1982, tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, ngoài ra ông còn sử dụng một số các bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê. Nhắc đến Hoài Thanh, người ta nhớ tới một nhà phê bình văn học uyên bác, tinh tế cùng những lập luận sắc sảo đã nổi danh lẫy lừng trong cộng đồng văn học đương thời.
Đầu thế kỷ XX, Hoài Thanh và em trai Hoài Chân đã cùng sáng tác Thi nhân Việt Nam, một tác phẩm văn học kiệt xuất đã đưa tác giả trở thành một nhà phê bình lớn có tiếng của nền văn học nước nhà.
Hoài Thanh quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, thuở thiếu thời, ông là học sinh của trường Quốc học Vinh. Trước năm 1945, qua nhiều bài báo và các tác phẩm ra đời, Hoài Thanh được coi là người đứng đầu trường phái văn học Nghệ thuật vị nghệ thuật.
Thời điểm này, ông có tham gia các trang báo như Phổ thông, La Gazette de Huế, Tràng An, Sông Hương, Tao Đàn. Hoài Thanh còn sáng tác thêm Văn chương và hành động và Thi nhân Việt Nam do Hoài Thanh đóng góp là chủ yếu.
Sau năm 1945, nhà văn lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng trong sự nghiệp văn học đất nước.
Tháng Tám năm 1945, Hoài Thanh gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng và tham gia Tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Huế. Tiếp đó, ông lên nắm giữ chức Chủ tịch hội Văn hóa cứu quốc, đồng thời cũng trực tiếp giảng dạy tại đại học Hà Nội từ năm 1945 tới 1946.
Nhiều năm sau, nhờ tài năng xuất chúng và nhận được nhiều sự tín nhiệm, Hoài Thanh đã tham gia rất nhiều tổ chức văn hóa nghệ thuật lớn trong nước.
Có thể kể đến như ông đã từng công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, một thời gian nữa ông trở thành ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam, Trưởng tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương.
Ngoài ra ông còn đứng ở nhiều vị trí lớn như Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1958, Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện. Từ 1969 đến 1975 ông giữ chức Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ.
Ông còn là đại biểu Quốc hội khóa 2, Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam và nằm trong Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2.
Năm 2000, Hoài Thanh đã được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí minh về Văn học – Nghệ thuật đợt II với các tác phẩm nổi tiếng Phê bình tiểu luận, Nói chuyện thơ kháng chiến, Thi nhân Việt Nam.
Con đường gian nan dẫn tới nghề phê bình văn học của Hoài Thanh
Hoài Thanh đã phải trải qua vô vàn khổ ải và may mắn thay, với bao biến đổi thăng trầm của thời cuộc, ông vẫn giữ được mình, giữ được ở ngòi bút mình cái tư chất đặc biệt quí giá mà Ngô Tất Tố đã có lần nhận xét:
“…một người trong sạch, thành thật và có nghị lực trong lớp thanh niên ngày nay”
Thơ mới đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy năm 1934 là bước khởi đầu cho sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh.
Hoài Thanh là một trí thức xuất thân Tây học sớm có ý thức về dân tộc và đất nước, lần giở lại những trang tài liệu, chúng ta thấy rằng trước Cách mạng tháng Tám, Hoài Thanh cầm bút trong một hoàn cảnh hết sức chông gai.
Ông đã trải qua những ngày bị bắt giam khổ ải sau khi tham gia cách mạng, bị quản thúc, đuổi việc, buộc phải treo bút sau khi viết chung với Lê Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư cuốn Văn chương và hành động năm 1936 đồng thời ông cũng bị một số đồng nghiệp lên án là thoát ly, bị quy là văn sĩ phú hào, văn sĩ bourgeoi.
Bước vào làng văn, Hoài Thanh đã phải làm việc trong một hoàn cảnh và tâm thế như vậy, giữa lúc ý thức về cá nhân tự do, ý thức về văn chương với tư cách là một bộ môn độc lập vừa mới phát sinh đã gặp sự kìm hãm của thời cuộc từ hai phía.
Một bên là chính sách thực dân cực kỳ hà khắc, một bên là lời kêu gọi của ý thức cộng đồng, người cầm bút với tư cách công dân một nước nô lệ phải dồn mọi tâm sức để giải phóng đất nước.
Nhưng dường như Hoài Thanh ngay từ đầu đã cầm bút không phải chỉ bằng ý thức về nghề mà còn do sự thúc đẩy bởi một cái nghiệp.
Đó là thái độ của một người nghệ sĩ đến với văn chương, một người nghệ sĩ yêu thiết tha tiếng nói của giống nòi và hết sức trân trọng những giá trị tinh thần của dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung.
Ở bài viết đầu tay, Hoài Thanh đã nói đến những khởi động quan trọng rồi sẽ phát triển thành một phong trào thơ, một cuộc cách mạng trong thơ, một thời đại của thi ca.
Ông sớm xác định cho mình những quan niệm về văn học, rất thâm tín, nhất quán và nghiêm ngặt, mà thể hiện tập trung nhất là những bài báo trong cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh” và trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam.
Có thể nói, trong các cuộc tranh luận trên báo chí thời bấy giờ, đây là cuộc tranh luận thú vị và quan trọng nhất, đã chạm đến những vấn đề cơ bản nhất của lý luận văn học.
Bằng một cách diễn đạt nhẹ nhàng, trong sáng và giàu hình ảnh, Hoài Thanh đã lần lượt trình bày những quan niệm của ông về văn học, phê bình văn học và nhà văn.
Cũng chính trong cuộc tranh luận trên Tràng An năm 1935, Hoài Thanh xác định mục đích sau cùng của nghệ thuật:
“Nói cho cùng, nghệ thuật nào mà chẳng vị nhân sinh, không vì cái sinh hoạt vật chất thì cũng vì cái sinh hoạt tinh thần của người ta”.
Ông đã đứng trên lập trường ủng hộ nó, khẳng định nó và ca ngợi nó, dẫu Thơ mới lúc đó còn đang trên đường hình thành giữa một biển thơ cũ, số người phản đối nó vẫn đang còn là lực lượng áp đảo.
Sau Thơ mới là bài Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ thuật và Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy năm 1935.
Đây là một tuyên ngôn không chỉ phù hợp với sự nghiệp viết của ông trước năm 1945 mà cũng có sức chi phối rất lớn tới sự nghiệp viết của ông sau đó.
“Cuộc sinh hoạt vật chất như một tấm màn đen ngăn tri giác người ta với thâm chân. Vén tấm màn đen ấy, tìm những cái hay, cái đẹp, cái lạ trong cảnh trí thiên nhiên và trong tâm linh người ta, rồi mượn câu văn, tấm đá, bức tranh làm cho người ta cùng nghe, cùng cảm, đó là nhiệm vụ của nghệ thuật, và nói riêng ra, cũng là nhiệm vụ của văn chương.”
Khi nói về phê bình văn học, Hoài Thanh đã nêu lên nhận xét:
“Bình thì còn được. Nhưng phê? Sao lại phê?” Bình có nghĩa là khen. Và khen tức là sự đi tìm và xác định cái hay trong văn chương. Bởi nói như ông, với văn chương, để được gọi là văn chương, cái hay mới là cái đáng giá, còn cái dở, cái nhảm thì “không tiêu biểu gì hết.”
Ở bài tiểu luận có ý nghĩa tuyên ngôn này Hoài Thanh đã nói điều ông sẽ thực hiện và trung thành với nó trong suốt đời viết của mình.
Năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân viết Thi nhân Việt Nam, một tác phẩm bất hủ đã đưa tác giả lên vị trí cao xứng tầm một nhà nghiên cứu và phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hoài Thanh được đánh giá là người đã trao chiếc áo hoàng bào trong lễ đăng quang của Thơ mới. Chính ông đã góp phần làm rõ diện mạo của Một thời đại trong thi ca mà sau này, những nhận xét của ông vẫn còn là mẫu mực của phê bình văn chương hiện đại.
Ông đã đặt vấn đề nhận thức lại về nghệ thuật trong sự bùng nổ của ý thức cá nhân trước nhu cầu tự nhận thức và tự biểu hiện của dân tộc và thời đại.
Tuy nhiên khi phân biệt quá rạch ròi giữa nhà văn với tư cách công dân và nhà văn với tư cách nghệ sĩ, việc nhấn mạnh đến “bản chất thuần tuý của văn chương”, Hoài Thanh đã vô tình thu hẹp phạm vi ảnh hưởng của nghệ thuật và hạ thấp sứ mệnh của nhà văn.
Ông viết:
“Cho nên, một đôi khi vì sự tình cờ một tác phẩm văn nghệ có thể ảnh hưởng đến chính trị, tôn giáo, đạo đức nhưng đó chỉ là sự tình cờ, và nói cho đúng ra, nếu xét về phương diện ấy, tác phẩm không còn giữ cái bản thất thuần tuý của nó nữa. Nhà văn là người sống giữa xã hội, cố nhiên tùy sức mình làm hết phận sự đối với xã hội, tôi muốn nói nhà văn có lúc phải bênh vực kẻ yếu, chống lại sức mạnh của tiền tài súng đạn, nhưng trong lúc đó nhà văn không làm văn nữa mà chỉ làm cái phận sự của người cầm bút mà thôi. Ta nên nhớ rằng cầm bút chưa phải là viết văn. Văn chương là vật quý có đâu nhiều đến thế!”
Thi nhân Việt Nam được đánh giá là một thiên chính luận, một công trình tổng kết một cách sâu sắc, chuẩn mực về phong trào Thơ mới. Trong hàng trăm nhà thơ, hàng vạn bài thơ, nhà phê bình đã chọn ra 46 nhà thơ, 169 bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới.
Trong đó Hoài Thanh đã vẽ nên chân dung thơ của các thi nhân bằng một lối phê bình độc đáo, tác giả ghi lại các ấn tượng, cảm xúc cùng những hình sắc mà thơ của từng người đã hiện lên trong tâm hồn ông.
Văn học nghệ thuật theo Hoài Thanh là tiếng nói của trái tim, của cảm xúc thẩm mỹ, của trí tuệ và ý kiến cá nhân. Đó là một hoạt động hoàn toàn tự nguyện, tự giác nên nó phải được đối xử đúng như bản chất của nó vậy.
Sau tất cả các thi sĩ, ông cũng là một nhà thơ với tất cả các phẩm chất của thơ qua lời văn xuôi nghệ thuật quyến rũ, đưa người đọc vào một thế giới riêng do ông tạo ra.
Hoài Thanh quan niệm rằng văn học xuất phát từ đời sống tự nhiên và đời sống tâm linh của con người, đề tài, nội dung và cảm hứng của văn học, tất cả những gì đem lại cảm hứng nhân đạo và cảm xúc thẩm mỹ cho nhà văn là không giới hạn.
Do đó, mỗi tác phẩm phải đa dạng về cảm hứng và đề tài, nội dung cũng như phong cách, chưa bao giờ trong nền văn học Việt Nam có một cuộc hẹn hò kỳ diệu như vậy giữa tâm hồn một người “bình thơ” và tâm hồn những “thi nhân,” “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
Các tác phẩm phê bình văn học làm nên tên tuổi của Hoài Thanh
Trước Cách mạng Tháng Tám, Hoài Thanh có hai công trình được in thành sách Văn chương và hành động và Thi nhân Việt Nam. Rất tiếc cuốn sách đầu vừa ra đời đã bị thu hồi, nên ít được dư luận nhắc đến vì vậy có thể nói Thi nhân Việt Nam gần như gói trọn cả đoạn đời nghệ thuật của ông trước 1945.
Trải qua nửa thế kỷ chìm nổi, tác phẩm đó cùng chịu chung một số phận với đối tượng phê bình của nó là phong trào Thơ mới nhưng Hoài Thanh đã lên tiếng phủ định cái suy nghĩ đầy mặc cảm tự tôn và tự ti kia nơi người sáng tác và người phê bình:
“Nhưng dầu tôi có tự rẻ rúng đến đâu cũng không bao giờ nuôi cái mộng làm một cây leo, nghĩa là cái mộng “hôi” chút danh thừa. Thi nhân Việt Nam là một công trình khoa học có ý nghĩa khai phá, nhưng vẫn mang tính hoàn chỉnh và khái quát cao về một giai đoạn thi ca. Thi nhân Việt Nam đồng thời cũng là một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ với cách diễn đạt đầy cảm xúc và sáng tạo.”
Nửa thế kỷ sau, khi nhìn nhận lại phong trào Thơ mới trên cái toàn thể chúng ta vẫn chưa vượt qua được Hoài Thanh và hầu như vẫn nói lại những điều Thi nhân Việt Nam đã nói hoặc lại phải dẫn đến nguyên văn ý kiến của Hoài Thanh.
“Có thể xem trường hợp Hoài Thanh như sự minh họa rất chuẩn cho cái định nghĩa phê bình là người đại diện ý thức của văn học.”
Nhận định của nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh.
Thi nhân Việt Nam là một tuyển tập thơ, một công trình nghiên cứu, một tác phẩm phê bình hay là một tập tùy bút?
Nếu có một cái khuôn chung như lâu nay chúng ta thường quan niệm thì Thi nhân Việt Nam đã vượt ra ngoài cái khuôn đó.
Khi viết tác phẩm này, Hoài Thanh đã cố gắng vượt qua được rất nhiều những chi phối hệ lụy của đời sống trong thế giới nội tâm của mình cũng như trong phương pháp làm việc, điều mà nhiều nhà phê bình hiện nay khó tránh khỏi.
Trước tác phẩm, trước chân dung nhà thơ, trước khúc quanh của dòng sông thi ca, Hoài Thanh âm thầm, lặng lẽ đồng thời cảm nghĩ, nghiền ngẫm và chiêm nghiệm. Thi nhân Việt Nam ra đời, là một bức tranh đặc sắc về một giai đoạn thi ca Việt Nam.
Nó thể hiện được cả cái nền rộng của toàn cảnh lẫn từng chi tiết nhỏ và là một bức tranh sống động mang nhịp đập của thời đại cùng nhịp đập của trái tim mình. Chẳng thế mà ngay trong lời đề từ nơi trang đầu cuốn sách, Hoài Thanh đã dẫn lời Nguyễn Du “Của tin, gọi một chút này làm ghi”.
Với Thi nhân Việt Nam, tác giả đã thể hiện ý thức nghệ thuật và phong cách phê bình của mình ngay từ cái tựa sách. “Thi nhân” không thể chỉ hiểu là nhà thơ, thi sĩ như cách gọi thông thường du nhập từ phương Tây.
Hoài Thanh đã chọn cách gọi “Thi nhân” để bao hàm cách sống và cách làm văn của những con người dùng ngôn từ để truyền tải tất cả những gì tinh túy của dân tộc và “Việt Nam” là sự khẳng định đầy tự tin về chỗ đứng độc lập của đất nước mình, văn hóa mình.
Hoài Thanh đã gặp được Thơ mới và tìm thấy ở Thơ mới tiếng nói của lòng mình:
“Khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo, khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thực. Một khát vọng khẩn thiết đến đau đớn.”
Ngược lại, Thơ mới đã tìm thấy ở Hoài Thanh không chỉ tấm lòng của một người tri âm tri kỷ, mà còn là tư cách và tư chất của một nhà phê bình nghệ sĩ, người đã dọn lòng từ rất lâu và chuẩn bị cho mình rất kỹ để đón chờ vận hội văn chương này.
Là người phê bình thơ, Hoài Thanh đã phát huy sự nhạy cảm tinh tế vốn có kết hợp cùng với quan điểm hiện đại của văn hóa phương Tây để tạo thành một phương pháp và phong cách phê bình thấm nhuần tính Đông phương.
Mỗi bài phê bình của Hoài Thanh là một văn bản mới đem lại cảm xúc thẩm mỹ trọn vẹn.
Bởi vậy lối văn phê bình của Hoài Thanh là đi thẳng trực tiếp đến cái thần của sự vật, gợi lên cái tứ của bài thơ, nó gần với sáng tác mà xa với khoa học ở cách làm nhưng vẫn đạt đến ý nghĩa khoa học vì nó cũng phát hiện ra chân lý.
Cũng chính cách phê bình này đã làm nhiều người cho rằng phê bình của Hoài Thanh không có lý luận và là lối phê bình tình cảm, ấn tượng.
Bằng trái tim nhạy cảm của mình, Hoài Thanh đi vào thế giới của Thơ mới hòa cảm xúc của mình với cảm xúc của nhà thơ.
Đòi hỏi sự trong sáng chân thành và những ý tưởng tích cực nơi người sáng tác, Hoài Thanh cũng đặt ra yêu cầu như thế cho mình. Một đặc điểm xuyên suốt trong các bài phê bình của ông là hầu như không bao giờ tán dương một cách gượng gạo, gò ép.
Những liên tưởng và khen chê của Hoài Thanh không bao giờ là sự suy diễn quá đà của một trò chơi trí tuệ, hay do một quan hệ bạn bè bên ngoài mà luôn luôn xuất phát từ những điểm sáng có thực trong văn bản, dưới cái nhìn của ông.
Phê bình theo Hoài Thanh là đối thoại, ông đối thoại với nhà thơ, với người đọc và đôi khi với cả chính mình. Tinh thần của đối thoại là thẳng thắn chân tình, cởi mở và xác tín những điều mình nghĩ nhưng không phán quyết và cao giọng răn dạy hoặc áp đặt với người khác.
Với những bài thơ chớm bước vào khuynh hướng tượng trưng, nội dung khó hiểu, những bài thơ có cảm xúc thẩm mỹ khác với thị hiếu thẩm mỹ của Hoài Thanh, ông đều phê bình một cách cẩn thận và trân trọng như Bích Khê, Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Hàn Mặc Tử.
Giàu ý thức trách nhiệm, chu đáo với mình và chu đáo với người, Hoài Thanh còn đón chờ ta ở một chỗ ta không ngờ nhất trong tập sách Lời bạt Nhỏ to… đã khiến nhiều độc giả giật mình vì những linh cảm thần kì của Hoài Thanh.
Sau bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà, những dòng văn trang trọng như những nén nhang trầm cầu thỉnh Tản Đà về khai hội Tao Đàn, là bài phê bình Một thời đại trong thi ca.
Bài viết dài gần 50 trang đọc nhẹ nhàng như một thể tùy bút với lối văn đối thoại điềm đạm, dung dị mà dồn nén rất nhiều vấn đề, từ cuộc biến thiên lớn nhất trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đến những biến thái nhỏ nhất trong bước đường thơ của một tác giả.
Những trang viết về Thơ mới trong cuộc giao tranh với cái cũ là những trang tư liệu quý giá thể hiện bằng một giọng văn dí dỏm, thông minh.
Về sự hình thành của các khuynh hướng, phong cách và đặc trưng, hình thức của Thơ mới, Hoài Thanh đã miêu tả theo quan điểm đồng đại và lịch đại, ông có cái nhìn rất rộng và biện chứng về những dòng thơ:
“Cố nhiên trong sự thực, ba dòng ấy không có cách biệt rõ ràng như thế. Nếu ta nghĩ đến dòng sông thì đó là những dòng sông nước tràn bờ và luôn luôn giao hoán với nhau.”
Đặc biệt, trong mỗi dòng thơ Hoài Thanh đã xác định vị trí của từng nhà thơ, đây là một việc làm rất tế nhị, đòi hỏi sự dũng cảm của nhà phê bình nhưng Hoài Thanh đã làm được và làm có sức thuyết phục, bởi sự chính xác và tính vô tư.
Sau năm 1945, Hoài Thanh đã tìm thấy trong xã hội mới một lòng tin đầy đủ cho phép ông nhập cuộc vào dòng văn học với ý thức cộng đồng, dòng văn học giải phóng đất nước, tạm gác lại con đường xây dựng nền văn học với ý thức giải phóng cá nhân mà ông đã đấu tranh, bảo vệ và vui buồn, đớn đau vì nó.
Những hoạt động và tác phẩm của Hoài Thanh trong giai đoạn này cho thấy ông đã có một đóng góp hết sức phong phú.
Bên cạnh sự am hiểu sâu sắc về văn học và về thời đại, ở Hoài Thanh còn có sự nhất quán và cởi mở của những quan điểm lý luận, sự tài hoa tinh tế và nhạy cảm của ngòi bút phê bình. Ông đã và sẽ là nhà phê bình có một vị trí khó thay thế trong lịch sử phê bình Việt Nam.
Tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hoài Thanh tích cực tham gia kháng chiến và nỗ lực trau dồi quan điểm văn nghệ cách mạng.
Ông như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới, giúp sáng tạo thêm nhiều tác phẩm phê bình văn học nhưng chủ yếu vẫn là những tác phẩm phê bình thơ, có giá trị tỏa sáng trong nền văn học cách mạng, kháng chiến và xây dựng xã hội mới.
Có một nền văn hóa Việt Nam viết năm 1946 là tác phẩm đầu tiên ông viết sau Cách mạng Tháng Tám, đây là tác phẩm giàu tính chiến đấu và có sức thuyết phục cao bởi lý lẽ sắc bén và tình cảm chân thành của tác giả đối với văn hóa dân tộc.
Tác phẩm tiếp theo Nói chuyện thơ kháng chiến tập hợp những bài nói chuyện về thơ của Hoài Thanh trước đông đảo công chúng trên những nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Với sự đồng cảm sâu xa, Hoài Thanh luôn khẳng định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình yêu nước, và không có gì ngoài tình yêu nước, không có gì ngoài những phương diện của tình yêu nước.”
Tiếp tục duy trì những thao tác đã dùng khi viết Một thời đại trong thi ca, nhà phê bình đã quan sát thơ kháng chiến từ nhiều bình diện như cơ sở xã hội, đội ngũ sáng tác, nội dung trữ tình, thể thơ.
Hoài Thanh đã phác họa chân dung những con người mới của một thời đại mới, nhân vật công nông binh, đồng thời chọn lọc và giới thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu biểu như Viếng bạn (Hoàng Lộc), Nhớ (Hồng Nguyên), Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Người dân quân xã (Vĩnh Mai), Lượm, Lên Tây Bắc (Tố Hữu).
Ba tập Phê bình và tiểu luận viết từ năm 1960 đến 1971 là bộ sách tập hợp những bài nói, bài viết và bài giảng của ông về văn học nghệ thuật của ông từ sau cách mạng.
Trong đó đáng chú ý là những bài giảng của ông về văn học cổ điển Việt Nam như Hoa tiên, Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều đã đạt tới sự phân tích sâu sắc với những khám phá mới mẻ.
Những bài viết của ông về thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh, thơ Tố Hữu cũng được nhiều người chú ý. Ông còn đi bình thơ, nói chuyện thơ tới hàng nghìn buổi từ miền cực Bắc của Tổ quốc đến tận mũi Cà Mau.
Theo sóng Đài tiếng nói Việt Nam, các câu chuyện thơ của ông đã lan tỏa khắp mọi miền đất nước, góp phần truyền tải đến công chúng những giá trị cao đẹp của thơ ca dân tộc, thơ cách mạng và kháng chiến.
Như một nhà địa chất cần mẫn, yêu nghề, Hoài Thanh đã phát hiện được không ít vàng ngọc của thơ ẩn trong lớp bụi thời gian hoặc trong các mạch chìm nổi của cuộc đời.
Nghĩ về sự đóng góp của mình cho cuộc đời, Hoài Thanh từng nói:
“Dẫu chưa đóng góp được gì nhiều thì cuộc đời mỗi chúng ta cũng là một giọt nước trong biển cả mênh mông và giọt nước không phải chỉ có chua với chát mà cũng có nhiều phần ngọt, phần trong. Và đến ngày nào đó chúng mình ra đi thì chúng mình cũng có thể nhẹ nhàng ra đi với ý nghĩa ấy…”
Còn thế hệ sau thì luôn nhớ tới ông như một biểu tượng phê bình văn học của văn đàn Việt Nam thế kỷ XX.
Năm 1982, Hoài Thanh đã từ giã cõi đời hưởng thọ 73 tuổi, cuộc đời ông từ thuở thiếu thời cho đến lúc trái tim ngừng đập là một chuỗi dài những cuộc tìm kiếm đầy thích thú mê say cái hay và vẻ đẹp văn chương.
Thùy Lam
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất