Bài thơ Bếp lửa là một trong số những sáng tác thi ca xuất sắc của tác giả Bằng Việt. Thi phẩm mang âm hưởng nhẹ nhàng, du dương đầy da diết, thấm đượm tình bà cháu thiêng liêng.

Những kỉ niệm xúc động giữa bà và cháu được tái hiện qua dòng hồi tưởng của người cháu khi đã trưởng thành. Hình ảnh “bếp lửa” năm xưa đã trở thành điểm nhớ, chỗ dựa tinh thần vững vàng cho người con xa quê.

Bằng Việt là nhà thơ tài hoa có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà

Nhà thơ Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, nguyên quán ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Ông bắt đầu làm thơ từ những năm sáu mươi của thế kỉ XX, thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tác giả học đại học tại Liên Xô cũ và sau khi tốt nghiệp khoa Pháp lý trường Đại học Tổng hợp Kiev năm 1965 thì ông trở về Việt Nam, làm việc ở Viện Luật học. Đến năm 1969 thì nhà thơ chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.

Bằng Việt là nhà thơ tài hoa có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà

Bằng Việt đã từng tham gia chiến trường Bình Trị Thiên với tư cách phóng viên. Quãng thời gian này giúp ông có thêm nhiều kinh nghiệm và tư liệu thực tế về cuộc sống nơi mưa bom bão đạn, từ đó truyền tải vào thơ một cách đầy xúc động.

Nhà thơ xuất hiện trên thi đàn với phong cách rất riêng và độc đáo, thơ ông trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc. Tác giả Bằng Việt thường hướng vào khai thác những kỉ niệm, ký ức thời thơ ấu, từ đó gợi lên những ước mơ của tuổi trẻ.

“Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh. Với những câu thơ xúc cảm tinh tế, chữ nghĩa long lanh, độc giả ấn tượng về anh như một nhà thơ trẻ lịch lãm, tài hoa.” – Tổng biên tập báo CAND Phạm Khải chia sẻ

Bên cạnh sự nghiệp văn học vẻ vang, nhà thơ Bằng Việt cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị khi đảm nhận vai trò thành ủy viên Thành ủy Hà Nội, Thư ký thường trực, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội từ năm 1991 đến năm 2000.

Bài thơ Bếp lửa là tác phẩm ấm áp tình bà cháu thiêng liêng, cao cả

Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi đó tác giả đang là sinh viên ngành Luật tại Liên Xô và được tuyển in trong tập Hương cây – Bếp lửa. 

Nhà thơ Bằng Việt lựa chọn cho tác phẩm của mình nhan đề “Bếp lửa”, một hình ảnh mang nhiều tầng ý nghĩa. Bếp lửa là vật dụng hết sức quen thuộc và gần gũi trong mỗi gia đình, nó còn gắn liền với chính kỷ niệm thời ấu thơ của tác giả.

Bên cạnh ý nghĩa tả thực, “bếp lửa” còn mang ý nghĩa biểu tượng, gợi lên sự chăm sóc, yêu thương người bà dành cho cháu trong những năm tháng chiến tranh đói nghèo, nuôi dưỡng cháu đến khi khôn lớn.

Ngoài ra, “bếp lửa” còn gợi lên biết bao vất vả, cực nhọc của đời bà, nhóm lên bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin và hy vọng cho cháu vào một tương lai tươi đẹp phía trước.

Hình ảnh “bếp lửa” còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, của nguồn cội đã nâng bước người cháu trên suốt đường đời dài rộng.

Hình ảnh bếp lửa là nơi bắt đầu của nỗi nhớ

Mọi cảm xúc nhớ nhung, lưu luyến bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa’, ở nơi phương xa ấy cháu vẫn luôn nhớ về những người thân yêu, đặc biệt là bà cùng biết bao kỉ niệm thời thơ bé. 

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.” – Bếp lửa

Từ những câu thơ đầu tiên đã xuất hiện những hình ảnh rất giàu sức gợi, “một bếp lửa” được nhắc đi nhắc lại tới hai lần trong khổ thơ, trở thành điệp khúc mở đầu cho cảm xúc của nhà thơ với giọng điệu đầy sâu lắng, để từ đó đi đến sự khẳng định rằng “bếp lửa” là  dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. 

Hình ảnh bếp lửa ấy được miêu tả hết sức cụ thể thông qua những cụm từ như “chờn vờn, sương sớm”, gợi lên ký ức quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trong buổi sớm mai.

Chi tiết “bếp lửa” lại càng trở nên thân thương, chứa đựng biết bao tình cảm và được tác giả khái quát qua hành động “ấp iu nồng đượm”. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đây thôi thì độc giả chưa thể cảm nhận hết nỗi niềm của tác giả khi nhắc lại kí ức này.

Hình ảnh bếp lửa là nơi bắt đầu của nỗi nhớ

“Chờn vờn” là một từ láy tạo hình, gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình “bập bùng” của ngọn lửa trong tâm trí nhà thơ cùng bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp.

Nhà thơ Bằng Việt đã mang đến cho độc giả sự ấn tượng đặc biệt đối với hình ảnh “bếp lửa”, một kỷ vật rất đỗi gần gũi và bình dị, làm trỗi dậy tình yêu thương nơi nỗi lòng của người cháu xa quê.

Câu thơ “cháu thương bà biết mấy nắng mưa” như lời thông báo trực tiếp, thể hiện tình cảm một cách chững chạc, trưởng thành nhưng đầy giản dị. Những nhớ nhung được lột tả trọn vẹn qua chữ “thương”, chứa đựng tất cả nỗi niềm khắc khoải của người con xa xứ.

Khi nói về bà, nhà thơ nhắc tới hình ảnh “nắng mưa”, đó là phép ẩn dụ cho những vất vả, nhọc nhằn bà đã trải qua, tất cả đều để chăm bẵm, lo toan cho cuộc sống của cháu và cả gia đình.

Ở ba câu thơ đầu, khi sử dụng hình ảnh rất mộc mạc, ngôn từ giàu sức biểu cảm kết hợp thủ pháp điệp từ, nhà thơ Bằng Việt đã đưa độc giả về với những ấn tượng của “bếp lửa”, từ đó khơi gợi nỗi niềm nhớ thương da diết, nồng nàn.

Những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và bếp lửa

Những năm tháng kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm trí nhà thơ mãi tới tận bây giờ. Tuổi thơ ông trải qua nạn đói khủng khiếp năm 1945 song nhờ sự chăm bẵm của người bà kính yêu, mọi u ám, lầm than đã được xoa dịu phần nào.

“… Cái năm đói củ rong riềng luộc sượng

Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm. “ – Đò Lèn (Nguyễn  Duy)

Tuổi thơ Bằng Việt không phải vòm trời cổ tích cùng những phép màu của ông tiên, bà tiên mà chính là mùi khói bếp nồng đượm cùng bóng đêm yên ắng tới đáng sợ của nạn đói Ất Dậu khủng khiếp. Tất cả đã in hằn vào tâm trí non nớt cậu bé bốn tuổi và mỗi lần nhắc lại khóe mắt vẫn cay cay.

Kỉ niệm ấm áp bên bà năm lên bốn tuổi

Câu thơ đầu tiên ở khổ hai như một sự thông báo hết sức mộc mạc, giản dị. Tuổi thơ Bằng Việt đã quen với mùi khói cay nồng từ bếp lửa, lời thơ như xoáy sâu vào tiềm thức, lay động tâm trí con người.

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” – Bếp lửa

“Mùi khói” bếp cay nồng là biểu tượng cho sự nhọc nhằn của người dân quê mà chính tác giả đã có những tháng ngày trải nghiệm. Từ “quen” nghe thật thân thương, bình dị như nỗi niềm tha thiết được gợi nhắc về từ sâu trong quá khứ.

Giờ đây, tất cả những ký ức hồi lên bốn tuổi đã vọng về đầy thương nhớ. “Năm ấy” là năm xảy ra nạn đói khủng khiếp, “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” mà đến bây giờ nghĩ lại vẫn không khỏi xót xa.

“Năm ấy” được nhắc lại như một vết đau khôn cùng mà hiện nay nó vẫn còn hiện hữu trong tâm trí chúng ta. Rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã phản ánh hiện thực kinh hoàng ấy vào trong trang viết của mình như Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Lão Hạc (Nam Cao).

Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” mà tác giả sử dụng đã gợi chính xác về hiện thực đầy đau thương trong lịch sử, khiến câu thơ như trĩu xuống và lòng người nao nao, nghẹn ngào.

Cùng với nạn đói ấy thì những hình ảnh trong ký ức tuổi thơ tác giả cũng hiện về thật cụ thể như “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”. Chính các chi tiết đó đã điểm tô và làm rõ thêm hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình thi sĩ.

Các chi tiết thơ “đói mòn đói mỏi” và “khô rạc ngựa gầy” mang đậm chất hiện thực, tái hiện hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người tiêu điều, vật lộn với cuộc sống mưu sinh. 

Cùng với những kỉ niệm về nạn đói ấy thì sự việc “khói hun nhèm mắt cháu” đã để lại ấn tượng vô cùng sâu đậm trong tâm trí nhà thơ hồi lên bốn tuổi. Hình ảnh “mùi khói” trở lại trong cuối đoạn bộc lộ tâm trạng xúc động của người cháu khi đã trưởng thành, nhớ về bà với quãng thời gian không thể nào quên.

Nếu hình ảnh “khói hun nhèm mắt cháu” là hiện thân của quá khứ thì “sống mũi còn cay” lại biểu trưng cho hiện tại, chứng tỏ rằng “mùi khói bếp” của bà đã có sức ám ảnh, lay động vô cùng lớn lao đối với thế giới tâm hồn người cháu.

Những hồi ức không thể nào quên năm lên tám tuổi

Sau hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ hồi lên bốn tuổi thì tác giả Bằng Việt tiếp tục đưa độc giả đến với ký ức ấu thơ những năm lên tám. 

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về.” – Bếp lửa

Câu thơ đầu tiên hiện lên đầy sinh động, giản dị, gợi nhắc những năm tháng mà cháu sống trong sự chăm sóc, dạy dỗ của bà. “Tám năm ròng” là khoảng thời gian cháu nhận sự yêu thương, bao bọc, chăm chút, không phải đứa trẻ nào thời ấy cũng may mắn có được.

Những hồi ức không thể nào quên năm lên tám tuổi

Cũng chính trong tám năm ấy thì hình ảnh bà và bếp lửa đã hiện lên thật thân thương, gần gũi và đầy ấm áp. Tình cảm của bà là chỗ dựa tinh thần lớn để cháu có thể vững bước trên đường đời chông gai sau này.

Hồi ức trong tâm tưởng nhà thơ còn có những năm tháng hồn nhiên đầy trong sáng, vô tư, gắn liền với âm thanh vô cùng quen thuộc là “tiếng chim tu hú”, gắn liền với đồng quê mỗi độ hè về.

Hơn thế nữa, tiếng chim tu hú còn như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy với biết bao hoài niệm, nhớ thương. Trong âm thanh văng vẳng ấy bà lại kể chuyện “những ngày ở Huế”, kể về chiến tranh để mong cháu luôn ghi nhớ truyền thống gia đình.

Trong câu chuyện bà kể thì có hình ảnh “mẹ cùng cha công tác bận không về”, đó chính là hiện thân những năm tháng kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cha mẹ bận tham gia chiến trường, vậy nên tất cả mọi sự yêu thương, đùm bọc của bà đều dành hết cho người cháu thân yêu.

“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” –  Bếp lửa

Chủ thể “bà” được nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ cùng các động từ “bảo, dạy, chăm”, tất cả những điều ấy kết hợp với nhau để diễn tả và nhấn mạnh sâu sắc tấm lòng bao la, chăm chút, nâng niu của bà dành cho đứa cháu nhỏ. 

Đặc biệt, cách xưng hô “bà – cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả về tình cảm rất mực quấn quýt, gắn bó.

“Dạy, bảo, chăm” đều là những yêu thương, săn sóc của bà, gợi lên sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Qua đó làm nổi bật sự kính trọng, hiếu nghĩa với bà từ người cháu phương xa.

Hình ảnh “bếp lửa” một lần nữa trở lại trong nỗi lòng khắc khoải của nhà thơ, nó thắp sáng lên ngọn lửa tình cảm gia đình, khiến biết bao kỉ niệm ùa về với những cảm xúc nghẹn ngào.

Đặc biệt, những hình ảnh về bếp lửa và kí ức ấu thơ hồi lên tám cứ văng vẳng trong tiếng chim tu hú đầy thân thương. Âm thanh ấy cũng đã trở lại khiến cho nỗi lòng càng thêm xót xa, day dứt. 

Câu hỏi tu từ “Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?” rất giàu sức biểu cảm, gợi hình ảnh chú chim tu hú đang lạc lõng, bơ vơ, khát khao được ấp ủ và chở che. Càng thương con chim bé bỏng ấy bao nhiêu thì tác giả lại càng da diết nhớ về những tháng ngày được bà chăm chút bấy nhiêu.

Thời bom đạn chiến tranh và những ấn tượng ấu thơ không thể nào quên

Sau những kỉ niệm hồi lên tám tuổi thì tác giả Bằng Việt tiếp tục đưa người đọc trở lại tuổi thơ ông thông qua câu chuyện về thời bom rơi đạn lạc đầy khốc liệt. 

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” – Bếp lửa

Trong dòng hồi tưởng về tháng năm bom đạn, hình ảnh bà vẫn luôn xuất hiện đầy xúc động qua từng vần thơ ấm áp. Độc giả có thể thấy rằng từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc thì “người bà” đã sáng lên rất nhiều những phẩm chất cao đẹp. 

Cách nói “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá, hủy diệt đầy phẫn nộ của chiến tranh nhưng ở đó người đọc vẫn luôn thấy hình ảnh bà được sống trong tình yêu thương của tình làng nghĩa xóm.

Nhà thơ đã có một sự quan sát đầy tinh tế và trải nghiệm độc đáo khi nhìn thấy được tình cảm xóm làng ấm áp trong chính thời gian kháng chiến gian khổ. Trước hiện thực ác liệt ấy thì bà vẫn luôn mạnh mẽ và kiên cường.

Điều đó bộc lộ đầy cảm động thông qua lời dặn dò của bà đối với cháu, độc giả hiểu rằng tuy đã ở độ tuổi cần được nghỉ ngơi nhưng bà vẫn luôn âm thầm, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để cho các con được yên tâm công tác nơi chiến trường xa xôi.

Thông qua những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh, tác giả không chỉ tái hiện khung cảnh chiến tranh thời trường kỳ kháng chiến gian nan mà còn phản ánh chân thực tình cảm ấm áp đầy tự hào của tình xóm làng tối lửa tắt đèn.

“Thơ Bằng Việt đã thể hiện một một cái tôi trữ tình độc đáo, giàu sáng tạo. Hồn thơ đôn hậu, nhạy cảm, rất sang trọng, giàu chất trí tuệ, ưa khái quát, triết lí của Bằng Việt đã bộc lộ được phong cách riêng của ông trước rất nhiều các nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống Mỹ.” – Sưu tầm

Trong những năm tháng ấy thì bóng hình người bà tảo tần hiện lên thật nổi bật với tấm lòng kiên cường, dũng cảm, giàu đức hy sinh. Bà dành tất cả sự bao bọc, yêu thương, lặng lẽ gồng mình làm điểm tựa vững chắc cho cả hậu phương và tiền tuyến.

Chính bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó. Qua từng vần thơ của tác giả Bằng Việt, những phẩm chất ấy một lần nữa được khẳng định thật rõ nét.

Những suy ngẫm đầy xúc động về bà và hình ảnh bếp lửa thân thương

Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống trong vòng tay yêu thương của bà bên bếp lửa quê hương thì người cháu đã có những suy ngẫm đầy ấm áp.

Bên cạnh lòng biết ơn còn có sự cảm phục, ngưỡng mộ khi bà luôn cần mẫn, thức khuya dậy sớm lo lắng cho gia đình, con cháu. Những vần thơ chứa đựng nghĩa nặng tinh sâu không khỏi khiến độc giả cay cay khóe mắt.

Hình ảnh bếp lửa thân thuộc gợi lên biết bao tâm tư nặng trĩu

Hình ảnh “bếp lửa” luôn trở đi trở lại trong toàn bài thơ, bếp lửa cũng mang bóng dáng của người bà nhẫn nại, tảo tần. 

“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…” – Bếp lửa

“Bếp lửa” là hình ảnh tả thực về một sự vật hữu hình gần gũi, gắn liền với những gian khổ của đời bà và đi theo suốt hai bà cháu trong suốt những năm tháng kháng chiến. Bà luôn cần mẫn nhen lên ánh lửa thấm đượm tình cảm, giúp sưởi ấm, chở che đứa cháu bé nhỏ.

Từ hình ảnh “bếp lửa” hữu hình ở câu thơ thứ nhất thì tác giả đã nhanh chóng đưa người đọc đến những liên tưởng về “ngọn lửa” vô hình mà “lòng bà luôn ủ sẵn”. Bếp lửa bà nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu như rơm, củi mà còn bằng ngọn lửa trong tấm lòng bao dung ấm áp.

Bà đã gửi gắm vào “ngọn lửa” bền bỉ, bất diệt ấy niềm vui, niềm tin và tình yêu thương cháu trong suốt chặng đường dài rộng mang tên cuộc đời. Không chỉ nhóm lửa, giữ lửa, bà còn là người truyền lửa, ngọn lửa mang sự sống của những thế hệ nối tiếp. 

“Có một tâm hồn nhiều suy nghĩ và rung động tinh tế, một chủ nghĩa trữ tình xao động, bồi hồi, khi đậm đà duyên dáng, khi âm vang sâu thẳm…” Giáo sư Lê Đình Kỵ 

Những từ ngữ “nhen, ủ sẵn, chứa” đã góp phần khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà cũng như hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. Đặc biệt phép ẩn dụ “một ngọn lửa’ ở câu thơ thứ hai và câu thơ thứ ba trong khổ mang kết cấu song hành, giúp cho giọng thơ vang lên đầy mạnh mẽ, tự hào.

Dòng suy tưởng cảm động về bà và cuộc đời bà

Hình ảnh “bếp lửa” trong tác phẩm luôn song hành cùng hình tượng người bà, bà là người nhóm lửa cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng, để rồi mỗi khi nhớ lại thì cháu vẫn luôn vô cùng cảm phục và biết ơn.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm…” – Bếp lửa

Các cụm từ chỉ thời gian như “đời bà, mấy chục năm” kết hợp với từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một cách thật chính xác và trọn vẹn cuộc đời gian nan, khó nhọc của người bà.

Dòng suy tưởng cảm động về bà và cuộc đời bà

Thời gian trôi qua, mọi sự đều biến đổi song chỉ duy nhất một điều bất biến suốt cả cuộc đời đó chính là bà vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình yêu thương cho người cháu.

Tình cảm thiêng liêng của cháu dành cho bà được thể hiện đầy xúc động qua từng câu chữ, hiện lên một cách giản dị, chân thành nhưng rất đỗi thiết tha và sâu nặng. Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc mà còn bằng tấm lòng ấp iu, đôn hậu với con cháu.

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” – Bếp lửa

Từ “nhóm” được điệp lại rất nhiều lần trong đoạn thơ, nó đan kết từng chi tiết tả thực để mang đến những ý nghĩa và liên tưởng khác nhau. Bà khơi dậy trong tâm hồn cháu niềm yêu thương, sự sẻ chia, tin tưởng bất diệt vào sự sống. Chính bởi điều đó mà nhà thơ đã thốt lên một cách đầy cảm xúc “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!”.

Bằng Việt đã sử dụng từ ngữ, hình ảnh hết sức giản dị, giàu giá trị biểu cảm, tâm trạng ông như dâng trào khi suy ngẫm về hình ảnh bà và bếp lửa thân thương.

“Mỗi nhà thơ lại có những phong cách riêng với nét đặc trưng trong chất thơ. Với Bằng Việt, chất thơ ấy chính là chất suy tưởng giàu tính trí tuệ và rất hào hoa.” – Sưu tầm

Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định rằng bà chính là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo tất cả mọi người và dành tình cảm đặc biệt thiêng liêng cho người cháu nhỏ dại phải xa cha mẹ vì chiến tranh.

Nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả khi hồi tưởng về những điều thân thuộc

Từ ngọn lửa của bà, người cháu nhận ra một niềm tin mãnh liệt về ngày mai, hiểu được linh hồn của một dân tộc tuy vất vả, gian lao mà tình nghĩa. Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, từ phương xa vọng nhớ về quê hương trong nỗi nhớ đong đầy.

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…” – Bếp lửa

Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ, cháu đã được sống với niềm vui rộng mở nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu”, “ngọn lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” thì vẫn không thể quên “bếp lửa” của bà.

Nỗi nhớ khôn nguôi của tác giả khi hồi tưởng về những điều thân thuộc

Mỗi ngày người cháu vẫn luôn tự hỏi “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”, hình ảnh bình dị mà thiêng liêng ấy làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.

Bài thơ Bếp lửa chứa đựng một triết lý thầm kín, những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng phía trước. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình cảm gia đình gắn với quê hương, đất nước.

“Có thể là bài thơ còn thiếu cái này cái nọ, nhưng phải nhận rằng, “Bếp lửa” là một bài thơ có nguồn cội, chứ không chơi vơi nửa vời…” – Sưu tầm 

Tác phẩm hấp dẫn người đọc bởi kết hợp nhuần nhuyễn các phương thức biểu cảm, miêu tả, tự sự cùng bình luận, phân tích. Thành công của bài thơ còn nằm ở sự sáng tạo hình ảnh “bếp lửa” gắn với người bà, là điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về tình cảm bà cháu thiêng liêng.

Tiểu Mai