Lỗ Tấn được ví như ngôi sao sáng của nền văn học Trung Hoa đầu thế kỷ XX với nhiều tác phẩm đặc sắc. Một trong số đó phải kể đến là truyện ngắn Thuốc, do tác giả chấp bút vào năm 1919.
Thông qua sự ra đi thương tâm của nhân vật Hạ Du, Lỗ Tấn đã phản ánh một cách chân thực và trần trụi bức tranh đen tối xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Hơn nữa, ông còn gửi gắm vào câu chữ nỗi đau đớn, xót xa trước thời cuộc, bày tỏ niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng.

Phong cách văn học độc đáo của Lỗ Tấn và truyện ngắn Thuốc
Tác giả Lỗ Tấn có tên khai sinh là Chu Thụ Nhân, tự Dự Tài, sinh năm 1881 trong một gia đình quan lại đã sa sút tại tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Nhờ tình yêu thương cùng sự giáo dục của cha mẹ, ông sớm được tiếp xúc với văn chương nghệ thuật.
Năm 1898, ông đến Nam Kinh, theo học tại Thủy sư rồi chuyển qua trường Khoáng vụ thiết lộ học đường để nghiên cứu ngành kỹ sư hầm mỏ. Trong thời gian này, Lỗ Tấn đã lĩnh hội những tinh hoa kiến thức, văn hóa phương Tây cũng như tiếp thu tư tưởng tiến bộ, dân chủ.
Trước khi chính thức cống hiến cho văn chương nghệ thuật, Lỗ Tấn từng có quãng thời gian hành nghề y, chữa bệnh cứu người. Vì vậy, ông tích lũy được nhiều kinh nghiệm cùng vốn sống ở đời, cũng chứng kiến không ít những số phận bất hạnh, bị giằng xéo và đày đọa.
Ông đã lắng nghe mọi tiếng khóc than đau đớn của những mảnh đời bất hạnh, trở thành người soi đường dẫn lối cho ánh sáng Cách mạng đến với muôn nhà. Người nghệ sĩ cao cả ấy muốn thay đổi hiện thực, đồng thời kiến tạo nên một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh hơn.
“Không có ai như Lỗ Tấn, trong văn học hiện đại Trung Quốc đã viết ra những trang văn dữ dội với hiện thực của đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ đến thế. Chỉ có ông mới dám nói thẳng sự thật “người ăn thịt người” trong xã hội đó.” – Nhà thơ Hoàng Trung Thông nói về những trang văn giàu tính hiện thực của Lỗ Tấn
Xã hội đương thời vô cùng tăm tối và tù túng, thế nhưng chưa bao giờ Lỗ Tấn thôi hy vọng về ngày mai tươi sáng. Hằn sâu dưới lớp ngôn từ cùng giọng điệu tưởng như ráo hoảnh, lạnh lùng kia là tấm lòng nhân hậu, luôn tin tưởng vào bản chất lương thiện của con người.
Người cầm bút cao cả ấy đã để lại cho nền văn học Trung Hoa nói riêng cũng như thế giới nói chung nhiều áng văn giàu giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Một số tác phẩm phải kể đến là Nhật ký người điên, AQ Chính truyện, Gào thét hay Thuốc.
Truyện ngắn Thuốc được tác giả sáng tác vào năm 1919 trong một hoàn cảnh lịch sử vô cùng đặc biệt. Đây là lúc phong trào chống đế quốc mang tên cách mạng Ngũ Tứ bùng nổ, có không ít lớp người tri thức đứng ra đòi quyền dân chủ cho quê hương.
Chứng kiến điều đó, tài năng cùng trái tim của một nghệ sĩ chân chính đã thôi thúc Lỗ Tấn thai nghén nên tác phẩm này. Nó không chỉ tái hiện thời cuộc đảo điên với “căn bệnh” u mê, dần ăn mòn nhân cách con người mà còn bộc lộ những nỗi băn khoăn đang dằn vặt nội tâm tác giả.
Ý nghĩa đặc biệt đằng sau nhan đề Thuốc
Nhan đề là ấn tượng đầu tiên của độc giả về tác phẩm, hé lộ phần nào nội dung cùng thông điệp mà người viết gửi gắm. Vì vậy, bất kỳ nghệ sĩ nào khi đến với nghề văn cũng cần phải tỉ mỉ trau chuốt cái tên phù hợp và độc đáo nhất.
“Sau khi viết xong một truyện… tôi kể ra cả một lô tên có thể mang đặt cho truyện đó. Đôi khi chúng có hàng trăm cái tên. Rồi tôi bắt đầu gạch bỏ, có khi, tất cả những tên nghĩ ra đều bị gạch hết.” – Nhà nghệ sĩ lớn Hemingway nói về quá trình chọn lựa nhan đề
Lỗ Tấn cũng không ngoại lệ, bằng tài năng văn học cùng bàn tay tài hoa, tác giả đã sáng tạo nên nhan đề Thuốc giàu ý nghĩa. Nó là chiếc bánh bao tẩm máu người dùng để điều trị cơn lao phổi nhưng đồng thời, có tác dụng chữa cả căn bệnh nô lệ của dân tộc trong xã hội đương thời.
Chính thứ thuốc ấy đã gắn kết bi kịch hai số phận và gia đình, phản ánh cả một xã hội đầy ung nhọt, lạc hậu. Nó được làm từ máu của chàng chiến sĩ Cách mạng hy sinh cho đất nước để rồi cuối cùng chỉ nhận lại lời miệt thị, mỉa mai.
Chỉ vỏn vẹn một chữ nhưng nhan đề Thuốc đã thể hiện một cách rõ nét tư tưởng của tác phẩm, ấy là bi kịch dân tộc Trung Hoa thời cận đại. Nếu như nhân dân lầm đường lạc lối, mãi ngủ mê trong những lề thói cổ hủ thì người Cách mạng cũng đang loay hoay, không thể tìm được sự đồng điệu hay tiếng nói chung.
Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người trong truyện ngắn Thuốc
Dưới trang viết của Lỗ Tấn, chiếc bánh bao tẩm máu người chính là nguồn cơn gây ra mọi bi kịch. Không chỉ vậy, nó còn đại diện cho những hủ tục lạc hậu và mê tín đang bủa vây, bám riết lấy nhân dân Trung Hoa.
Trong lời đồn thổi và truyền miệng của dân làng, chiếc bánh bao ấy là phương thuốc chữa bệnh lao vô cùng thần kỳ. Vì vậy, nó được nhiều người săn đón, thậm chí sẵn sàng trả cái giá “cao cắt cổ” bằng cả số tiền vất vả cả đời dành dụm, tích góp.
Vì không nỡ nhẫn tâm chứng kiến đứa con trai bị bệnh tật dày vò, hai vợ chồng lão Hoa đã dùng số tiền tích lũy bấy lâu để đổi lấy phương thuốc kỳ diệu. Qua cách miêu tả và khắc họa tâm trạng nhân vật, người đọc có thể cảm nhận một cách chân thật tình yêu thương vô bờ bến ấy.
“Thuyên nghe lời mẹ, vừa ho vừa nằm xuống. Đợi nghe tiếng thở dìu dịu, bà Hoa mới nhẹ nhàng lấy chiếc mền kép vá chằng chịt đắp cho con.” – Thuốc
Khi nhận được chiếc bánh bao tẩm máu, ông Hoa đã không giấu nổi sự hạnh phúc cùng niềm hy vọng. Lão tin chắc rằng nó phát huy công dụng và cứu lấy cậu Thuyên, cũng là người con trai tội nghiệp của mình khỏi căn bệnh quái ác.
“Lúc này, lão còn để hết tinh thần vào cái gói bánh như nâng niu đứa con của gia đình mười đời độc đinh, không chú ý đến gì nữa. Lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sung sướng biết bao!” – Thuốc
Với tư cách là bậc làm cha, ông Hoa luôn muốn dành tất cả những gì tốt nhất cho người con trai đang bị cơn lao phổi hành hạ từng ngày. Vì vậy, khi biết đến phương thuốc chữa bệnh kỳ lạ này, lão chẳng hề để tâm sự phi khoa học, mê tín dị đoan mà quyết định đặt trọn niềm tin vào nó.
Trong tác phẩm Thuốc, có rất nhiều kẻ mê muội tin vào tác dụng của chiếc bánh bao tẩm máu người. Họ lầm lũi dưới màn đêm tối, tranh giành và vật lộn với nhau chỉ để mua được phương thuốc chữa bệnh toàn năng.
“Những người tụm năm tụm ba lúc nãy cũng dồn lại một chỗ, rồi xô nhào tới như nước thuỷ triều, gần đến ngã ba đường thì đứng dừng lại, quây thành một nửa vòng tròn.” – Thuốc
Giọng điệu tác giả vừa mỉa mai, châm biếm lại xen lẫn cả thái độ đau đớn, xót xa khi tái hiện khung cảnh hỗn độn ấy. Chỉ vì lời đồn vô căn cứ mà người ta bất chấp luân thường đạo lý, dung túng và bao che cho những hành vi xấu xa.
Tấn bi kịch đã được tác giả đẩy đến đỉnh điểm khi máu trên chiếc bánh bao lão Hoa mua hôm ấy là của chàng chiến sĩ Cách mạng tiên phong tên Hạ Du. Những người dân trong tác phẩm chẳng những không thấu hiểu tấm lòng mà còn nhẫn tâm nhìn anh bị giết hại.
Chỉ qua hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người, Lỗ Tấn đã phơi bày cả thời kỳ lịch sử tối tăm, u ám của dân tộc Trung Hoa. Họ sống một cuộc đời tàn lụi không lối thoát, ngủ mê trong những suy nghĩ cùng định kiến lạc hậu, lỗi thời.
Truyện ngắn Thuốc và tấn bi kịch của cả một thời đại
Thông qua tác phẩm Thuốc cùng hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người, văn sĩ đã diễn tả bi kịch của cả một xã hội Trung Hoa đương thời. Ông đau xót nhận ra đồng bào mình đang dần đánh mất bản chất tốt đẹp vốn có, chìm trong màn đêm u tối và bị căn bệnh mê tín, ngu muội ăn mòn.
Nỗi bi kịch ấy được thể hiện trước hết ở gia đình nhà lão Hoa, vì nhẹ dạ cả tin, hai vợ chồng già đã tìm mua bằng được chiếc bánh bao tẩm máu người với hy vọng nó sẽ giúp con mình khỏe lại, thế nhưng cuối cùng anh vẫn bị bệnh tật hành hạ đến chết.
Sự ra đi đột ngột và đau đớn của anh Tuyên đồng thời dập tắt niềm hy vọng lớn nhất đời lão Hoa. Chỉ một chi tiết ấy cũng đủ để phản chiếu căn bệnh ngu dốt, mê tín tồn đọng trong xã hội Trung Hoa khi ấy.
Hơn nữa, Lỗ Tấn còn lồng ghép nỗi bi kịch trong cái chết thương tâm của chiến sĩ Hạ Du. Anh vốn làm Cách mạng để giải phóng đất nước, mang đến ánh sáng cho dân tộc nhưng nhân dân dường như không hiểu được nghĩa cử đó, thậm chí họ lên án, mạt sát và chửi rủa.
“Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi. Lần này, tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra, cũng lão Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất.” – Thuốc
Hạ Du không được tác giả trực tiếp miêu tả mà xuất hiện trong cuộc trò chuyện, lời bàn tán của các nhân vật khác. Họ dùng những từ ngữ vô cùng thậm tệ để lăng mạ anh như “điên”, “thằng quỷ sứ” hay “thằng nhãi con”.
Những kẻ ấy thi nhau nói xấu rồi cười đùa trước sự ra đi của một chiến sĩ Cách mạng. Thậm chí, họ còn tiếc rẻ vì không chiếm được chút của riêng từ Hạ Du hay tấm tắc khen nhân vật “cụ Ba” đã nhẫn tâm tố cáo cháu mình chỉ để đổi hai mươi lạng bạc.
“Cụ Ba đến là khôn! Giá cụ ta không đem thằng cháu ra thú thì cả nhà mất đầu hết. Nay thì được bao nhiêu là bạc! Còn cái thằng nhãi con ấy thì chẳng ra cái thứ gì hết. Nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc!” – Thuốc
Dù cho những phút cuối đời trong ngục, Hạ Du đã cố gắng giải thích, tuyên truyền về Cách mạng song anh vẫn không thoát khỏi cái chết. Thậm chí, máu của người thanh niên một lòng vì nhân dân và đất nước ấy còn bị bán rẻ để trở thành nguyên liệu cho phương thuốc chữa bệnh kia.
Trong truyện ngắn Thuốc, ngay cả mẹ Hạ Du cũng không thể hiểu được sự nghiệp cao cả của con mà luôn cảm thấy xấu hổ. Người chiến sĩ dũng cảm ấy đã phải trả một cái giá quá đắt cho lý tưởng Cách mạng cao đẹp, giải phóng đất nước khỏi màn đêm u tối.
Nỗi đau mà gia đình Hoa và Hạ đang gánh phải cũng chính là bi kịch chung của cả quê hương. Trong khi nhân dân bị trói chặt bởi những suy nghĩ lạc hậu, cổ hủ thì người làm Cách mạng vẫn còn xa rời, không thể bắt rễ vào đông đảo quần chúng.
Tấm lòng nhân đạo cùng tư tưởng tiến bộ của nhà văn Lỗ Tấn
Truyện ngắn Thuốc không đơn thuần chỉ tái hiện toàn cảnh thực trạng tăm tối, tù đọng trong xã hội Trung Hoa mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc cùng tư tưởng tiến bộ của Lỗ Tấn. Ông đã đặt cả tấm lòng mình vào từng trang viết, gửi gắm bao suy tư và hy vọng.
Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du ở cuối truyện như một cách để bày tỏ lòng kính yêu, khâm phục đối với một nhà Cách mạng vừa hy sinh của tác giả. Chính chi tiết ấy đã xua tan bớt bầu không khí bao trùm lên cả tác phẩm, đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan về tương lai nước nhà.
Rồi mai này, vẫn còn những chiến sĩ kiên cường khác tiếp bước Hạ Du, mang ánh sáng đến sưởi ấm cho cả dân tộc. Họ sẽ hoàn thành nhiệm vụ đang dang dở, xây dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ hơn.
Thái độ tích cực cùng sự lạc quan ấy còn được văn sĩ thể hiện thông qua hình ảnh con quạ ở phần kết truyện. Trong quan niệm người Trung Quốc, loài chim này là một biểu tượng của những điều tốt đẹp sắp đến.
Vì vậy, với chi tiết con quạ “vút bay thẳng về phía chân trời xa”, Lỗ Tấn đã bộc lộ dự cảm về viễn cảnh tươi đẹp, nhân dân được sống trong một xã hội công bằng và bác ái hơn. Đồng thời thể hiện tư tưởng tiến bộ của ông, ấy là tìm ra lối đi mới cho Cách mạng Trung Hoa dẫu còn nhiều trắc trở.
Những nét nghệ thuật đặc sắc của truyện ngắn Thuốc
Đã nhiều năm tháng trôi qua nhưng truyện ngắn Thuốc vẫn vẹn nguyên giá trị, neo đậu tại bến tâm hồn người thưởng thức. Ấy là vì, nó không chỉ mang đến thông điệp có nội dung sâu sắc mà còn chứa đựng cả những nét nghệ thuật đặc sắc.
Bằng tài năng nghệ thuật vốn có, Lỗ Tấn đã sáng tạo nên một cốt truyện vô cùng hấp dẫn và gay cấn, thu hút độc giả. Không chỉ vậy, ông còn rất chú ý trong việc xây dựng bức chân dung cùng tính cách từng nhân vật.
Đặc biệt, văn sĩ còn tập trung miêu tả và khai thác triệt để loại nhân vật đám đông. Họ là những người không có tên hay tuổi tác cụ thể, thế nhưng đều bị “căn bệnh tinh thần” che mờ lý trí, ăn mòn tâm hồn.
Bên cạnh đó, tác giả còn sáng tạo nên các hình tượng cùng chi tiết ẩn dụ và ý nghĩa. Tiêu biểu là chiếc bánh bao tẩm máu người, vòng hoa trên mộ chiến sĩ Hạ Du hay con quạ, cung đường mòn ở cuối tác phẩm.
Lỗ Tấn còn có biệt tài trong việc chọn lựa và sử dụng từ ngữ, từng câu chữ nhà văn viết ra đều giàu chất gợi hình, hơn nữa góp phần thể hiện tính cách cũng như nội tâm nhân vật.
Truyện ngắn Thuốc là một áng văn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Lỗ Tấn, đồng thời thể hiện cả tấm lòng nhân hậu cùng tư tưởng tiến bộ của ông. Vì vậy, nó sẽ vượt ra khỏi sự băng hoại mang tên thời gian, trở thành tuyệt tác lưu danh muôn đời.