“Tương cà gia bản” là câu thành ngữ đậm chất dân dã, được nhiều người thuộc tầng lớp lao động sử dụng. Lối nói này đã thể hiện phần nào cách ăn uống thanh đạm cũng như cuộc sống giản dị của họ.

Ý nghĩa của thành ngữ Tương cà gia bản
Câu thành ngữ này mượn hình ảnh “tương cà” gần gũi với đời sống sinh hoạt. Trong đó, tương là loại nước chấm làm bằng đỗ còn cà được biết đến như thứ nông sản dễ kiếm.
Cuộc sống của tầng lớp nông dân vốn khó khăn, quanh năm vất vả ngoài đồng áng nên họ xem tương và cà là món ăn cơ bản. Chính vì lẽ đó, dân gian mới có câu “Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản”.
Như vậy, thành ngữ “Tương cà gia bản” ngụ ý chỉ lối sinh hoạt cũng như ăn uống thanh đạm, chẳng cao lương mĩ vị nhưng bền chắc, lâu dài. Ngoài ra, nó còn được sử dụng để khuyên người đời cần biết tiết kiệm và nghĩ đến tương lai, không nên vung tay quá trán.
Câu chuyện về thành ngữ Tương cà gia bản
Cách nói gần gũi và bình dân này còn gắn liền với câu chuyện được lưu truyền trong dân gian. Theo đó, ngày xưa có một anh chàng ở vùng nọ cũng thuộc bậc khá giàu, thế nhưng tính tình lại tiết kiệm, không phung phí gì.
Nét tính cách của người ấy nổi tiếng khắp vùng, khi dịp quan trọng thì mới dám làm con gà hoặc đĩa cá. Vào ngày bình thường, anh chỉ rót thêm chút tương với đôi quả cà sao cho vừa đủ no.
Thấy thế, nhiều kẻ cười chê và trách móc anh tại sao phải chọn một cuộc sống vất vả, thiếu thốn. Họ cho rằng chàng trai đã giàu có sẵn thì nên tận hưởng cao lương mĩ vị.
“Ta nghĩ người sinh ra trong trời đất, nay mưa mai gió, chẳng lấy gì làm chắc, cho nên lúc ăn, lúc uống cũng nên chớ có nhịn miệng làm chi cho khổ cái thân.” – Nhiều người cười chê trước hành động tiết kiệm của anh chàng
Anh không hề nghe theo đám đông mà còn mắng ngược lại. Chàng thể hiện quan điểm con người cần phải biết suy nghĩ sâu rộng và lo cho tương lai, chắt chiu từng chút một tránh lãng phí.
“Con người ta sống ở đời chẳng phải một chút một ngày gì mà còn lâu dài mãi. Vậy mà cứ lo ăn, không liệu tính việc gì, thì dần dà của hết, người còn. Mình đã chẳng có mà ăn, con cháu mình cũng vì mình mà đói rách khổ sở, lại mang tiếng đời cha ăn mặn, đời còn khát nước.” – Chàng trai thể hiện suy nghĩ sâu sắc của mình
Mặc cho người đời cười chê, chàng trai vẫn tiếp tục thói quen tiết kiệm. Dần dà, nhà anh ngày càng sung túc và thịnh vượng, con cháu thì được sống trong sự đủ đầy.
Thiên hạ thấy vậy, không còn chê trách anh như trước đây nữa. Thay vào đó, họ lấy nhà chàng trai làm gương, dặn dò mọi người phải học cách tiết kiệm, ăn chắc mặc bền.
Sự góp mặt của thành ngữ Tương cà gia bản trong Nhằn vỏ trấu nuốt vỏ gạo
Nguyễn Thái Sơn nằm trong số nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác giả đã từng là một người lính tham gia kháng chiến chống Mỹ, vì vậy mỗi đứa con tinh thần do ông chấp bút đều in đậm hơi thở về thời kỳ oanh liệt, hào hùng.
Viết về đề tài chiến tranh, Nguyễn Thái Sơn chủ yếu khai thác khía cạnh hiện thực với thi phẩm Thăm mộ chiều cuối năm, “Ngả lưng” giữa hai cuộc chiến hay Nhằn vỏ trấu nuốt vỏ gạo. Ông bộc lộ trong trang thơ nỗi niềm xúc động, đau đớn và lo lắng khôn nguôi cho số phận con người.
Trong đó, bài thơ Nhằn vỏ trấu nuốt vỏ gạo đã thể hiện một cách chân thực và trần trụi cuộc sống thiếu thốn đủ bề của người dân thời kỳ chiến tranh. Họ thậm chí không thể có được một bữa cơm no, phải lay lắt sống qua ngày.
Nhằm nhấn mạnh hoàn cảnh khó khăn cũng như túng thiếu, nhà thơ đã mang vào thi phẩm thành ngữ “Tương cà gia bản”. Sự xuất hiện của cách nói đậm chất dân gian này khiến tác phẩm trở nên sinh động và gần gũi hơn, để lại ấn tượng khó phai mờ nơi tâm hồn độc giả.
“Da ếch bịt trống bầu khô làm đàn
quạt mo gối nan
tương cà gia bản “vẩy cá lá rau”
chõng nứa giường tre một đời chồng vợ.” – Thi sĩ đã sử dụng thành ngữ Tương cà gia bản để khắc họa hoàn cảnh khó khăn của người dân
Với những câu thơ cùng lời lẽ chân thực và đầy da diết, Nguyễn Thái Sơn đã tái hiện cả một thời kỳ vất vả, thiếu thốn đủ bề của dân tộc. Qua đó, ông cũng bộc lộ tấm lòng nhân hậu cũng như nỗi niềm thương cảm đối với các mảnh đời cơ cực.