Giăng sáng là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người trí thức Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, tác phẩm đã vẽ nên cảnh đời chung của các tiểu tư sản nghèo lúc bấy giờ, mặc dù mang trong mình nhiều hoài bão và ước mơ nhưng họ vẫn bị vùi dập bởi nỗi lo toan về cơm áo, gạo tiền.
Nam Cao và những trang văn thêu dệt từ hiện thực cuộc sống
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông được biết đến như một nhà văn hiện thực hàng đầu trên thi đàn văn học Việt Nam, bút danh của tác giả được ghép từ tên tổng và huyện nơi ông sinh ra.
Mặc dù sinh ra trong một gia đình công giáo bậc trung và đông con nhưng Nam Cao vẫn được cha mẹ cho đi học đầy đủ, sau này khi trưởng thành ông kiếm sống bằng nhiều nghề như thầy thuốc, dạy học và viết bài cho các tờ báo.
Ban đầu, Nam Cao cầm bút chỉ vì mưu sinh, ông đã đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy với hai tác phẩm Hai cái xác và Cảnh cuối cùng.
Tập tiểu thuyết Đôi lứa xứng đôi được xuất bản năm 1941 như một nốt nhạc bổng trong sự nghiệp văn chương của tác giả khi nó được bạn đọc đón nhận rộng rãi, sau này in lại ông đổi tên thành Chí Phèo.
Nam Cao được đánh giá là một trong những cây bút hàng đầu của chủ nghĩa văn học hiện thực, với hơn 15 năm tuổi nghề nhà văn không chỉ để lại khối lượng tác phẩm đồ sộ mà còn là người có góc nhìn về văn chương vô cùng quý giá. Đối với những người sáng tạo nghệ thuật từ con chữ, tác giả cho rằng:
“Sống đã rồi hãy viết.”
Giăng sáng là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám khi viết về trí thức tiểu tư sản nghèo cụ thể là những nhà văn, họ đang đấu tranh gay gắt giữa mộng văn chương và lo toan về gánh nặng tài chính.
Nhân vật Điền trong Giăng Sáng là một văn sĩ nghèo say mê vẻ đẹp huyền diệu của ánh trăng và anh mang trong mình cái mộng văn chương rất đỗi lớn lao nhưng trước mắt anh lại bị dồn dập bởi những bi kịch của đói nghèo, túng thiếu.
Bi kịch dưới ánh trăng của một tâm hồn nghệ sĩ
Điền là người thấm đẫm trong mình dòng chảy văn thơ, tuy được cha mẹ cho ăn học đầy đủ bản thân lại chẳng kiếm được bao nhiêu tiền dẫu thế anh vẫn tự nhủ rằng, chẳng phí đâu bởi nhờ con chữ ấy anh mới cảm nhận được tất thảy cái thi vị của trăng.
Đối với Điền, ánh trăng vô cùng đẹp đẽ và quý giá, nó là nguồn cảm hứng muôn đời của tâm hồn thi sĩ, có thể xoa dịu những cáu có trên khuôn mặt người vợ, làm giòn tan nụ cười của đứa con thơ. Điền thấy tiếc thay cho vợ khi cả đời toan tính dăm ba đồng bạc lẻ khiến tâm hồn thị trở nên khô khan và cằn cỗi.
“Chao ôi! Nếu cứ tính toán mãi thế, thì biết đến bao giờ cũng được? Sao thị lại cứ phải luôn luôn tính toán? Những kẻ chỉ suốt đời tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời.”
– Giăng sáng
Điền trách vợ mình là thế nhưng chính anh cũng chẳng thể nào thoát ra khỏi những lo lắng nhỏ nhen khi thấy cha mẹ còn khổ và vợ con thì nheo nhóc. Anh từng là gã trai sẵn sàng từ bỏ công việc mấy trăm đồng để theo cái nghề văn chương chỉ có giá năm đồng thế mà bây giờ Điền lại rơi vào bi kịch của miếng cơm manh áo.
Trong căn nhà rách nát, Điền nghe văng vẳng tiếng chửi rủa của vợ cùng tiếng khóc thút thít của đứa con, thế mà trên cao trăng vẫn soi sáng vằng vặc, thơ mộng. Trăng như chốn để người thi sĩ thoát ly khỏi những bi ai của trần gian, nó dẫn dắt Điền đến những suy nghĩ ích kỉ và tầm thường.
Điền bỗng suy nghĩ đến hình ảnh lả lơi của những người đàn bà đẹp và trong thoáng chốc anh muốn bỏ lại vợ con để đi tìm thứ xa hoa ấy, chỉ có thế ngọn bút của Điền mới họa được những nét thanh cao.
Khi Điền vẫn còn đang vẩn vơ trong suy nghĩ ấy thì những âm thanh trần tục đã kéo anh trở về thực tại khiến chàng văn sĩ nghèo cảm thấy hổ thẹn với mơ mộng hão huyền và vô vị của bản thân.
“Không một phút nào Điền không phải nghĩ đến tiền, óc Điền đầy những lo lắng nhỏ nhen. Một đôi khi chợt nhớ lại cái mộng xưa, Điền lại thở dài. Điền tự an ủi: có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Điền biết: chẳng bao giờ Điền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Điền cũng không có tiền.”
– Giăng sáng
Điền cũng như bao trí thức tiểu tư sản lúc bây giờ, họ bị cuộc sống đày đọa ghì sát đất và luôn mang trong mình tư tưởng muốn thoát ly khỏi hiện thực, thế nhưng trong tâm trí anh đang xảy ra một cuộc xung đột gay gắt giữa mộng văn chương và trách nhiệm gia đình.
Cuối tác phẩm là hình ảnh Điền tiếp tục viết những tác phẩm văn chương nhưng không phải dưới ánh trăng lung linh, huyền ảo mà là trong tiếng gắt gỏng của vợ và tiếng khóc của con.
Đó chính là quyết định của một người nghệ sĩ chân chính khi chọn từ bỏ thứ ánh trăng giả dối để chắp bút viết những trang văn từ chính những cảnh đời lầm than và phản ánh sự khốn khổ của một kiếp người.
Giăng sáng là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao
Trong giai đoạn lịch sử 1930 -1945, trí thức tiểu tư sản bị kìm hãm bởi giới cầm quyền khiến họ cảm thấy bí bách và ngột ngạt vì thế trào lưu văn học lãng mạn nổi lên như một cách để thoát ly khỏi những đau khổ trong hiện thực.
Tại thời điểm đó vẫn có những nhà văn như Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố và Nam Cao cũng vậy, ông đã hướng bản thân đến dòng văn hiện thực phê phán bởi họ nhận thức được rõ ràng nghệ thuật bắt nguồn từ đâu và phải phục vụ điều gì.
Trong Giăng sáng, Điền là nhân vật đại diện cho thi sĩ lúc bấy giờ, vì xuất thân là một tiểu tư sản nên anh vẫn mang trong mình một phần tư duy giống họ, đã có lúc anh muốn lẩn trốn vào ánh trăng và đến những nơi có người đàn bà xinh đẹp, lả lơi.
Cuối cùng, Điền đã nhận ra thứ văn chương chỉ đi tìm cái thi vị để thoát ly và hưởng lạc là thứ văn cho kẻ nhàn rỗi từ đó, anh đã nêu lên tuyên ngôn nghệ thuật của chính mình.
“Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng Điền. Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời.”
Nam Cao qua nhân vật Điền đã lên án lối văn chương nghệ thuật vị nghệ thuật vì quay lưng với cuộc sống, một người nghệ sĩ khi cầm bút phải đến gần hơn với nhân dân để thay họ cất lên tiếng khóc bi ai đồng thời vẽ nên những cảnh đời đốn mạc trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Ánh trăng trong tác phẩm là hình ảnh biểu tượng cho lối văn chương thi vị hóa cả những điều tồi tàn nhất, mặc kệ cho kiếp người quằn quại đau khổ dưới kia, trăng vẫn tỏa bóng lung linh.
Tác phẩm là lời đoạn tuyệt của Nam Cao với dòng văn học thoát ly hiện thực này bởi ông cũng từng là một tiểu tư sản tìm đến những con chữ diễm lệ, xa rời thực tế nên nhà văn càng hiểu rõ hơn sự phù phiếm mà thứ văn chương này đem lại.
Giăng sáng như một lời tuyên ngôn về nghệ thuật của Nam Cao, giúp ông xác định rõ ràng con đường văn học vị nhân sinh của mình và quả thực nhà văn đã trung thành với tuyên ngôn này trong suốt sự nghiệp cầm bút.
Ngọc Linh
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất