Câu cá mùa thu (Thu điếu) là thi phẩm do Nguyễn Khuyến sáng tác, bài thơ khắc hoạ hình ảnh làng quê Việt Nam vào mùa thu và kín đáo bày tỏ tấm lòng yêu quê hương, đất nước của vị thi sĩ.
Phong cảnh trữ tình cùng nỗi lòng sâu sắc trong Câu cá mùa thu được diễn tả vỏn vẹn bằng tám câu thơ dung dị mà đặc sắc. Mỗi một từ ngữ được sử dụng đều xuất phát từ dụng ý sâu xa của Nguyễn Khuyến, thể hiện tâm tư khó giãi bày theo phương thức độc đáo.
Với nghệ thuật gieo vần tài hoa và những ẩn ý đằng sau bức tranh mùa thu lạnh lẽo, vắng vẻ của vùng đồng chiêm Bắc Bộ, nhà thơ đã để lại một thi phẩm “sống đời” cho làng thi ca Việt Nam.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến và chùm thơ về mùa thu nổi tiếng
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, ông sinh năm 1835 tại tỉnh Nam Định, huyện Ý Yên. Cha Nguyễn Khuyến đỗ ba khoá tú tài trong khi mẹ ông cũng từng đỗ tú tài thời Lê Mạc, sự thông minh và tinh thần hiếu học được truyền từ đời thân sinh đến đời ông.
Sự nghiệp học vấn của thi sĩ có những thăng trầm nhất định khi đỗ đầu cử nhân trường Hà Nội vào năm 1864 rồi lại trượt thi Hội ngay sau đó. Nhờ sự kiện này, ông quyết tâm tu chí và đổi tên thành Nguyễn Khuyến với hàm ý nỗ lực mạnh mẽ rồi nghiêm túc dùi mài kinh sử.
Thành công đến với thi sĩ vào năm 1871 khi ông đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Bắt đầu từ đây, Nguyễn Khuyến thường được nhân dân nhắc đến với cái tên Tam nguyên Yên Đổ. Về sau, nhà thơ được phong làm Án Sát tại Thanh Hoá rồi thăng Bố Chính ở Quảng Ngãi.
Làm quan vào thời kỳ đất nước nhiễu nhương, cơ đồ nhà Nguyễn sụp đổ, Nguyễn Khuyến dần bất lực với thời cuộc và từ bỏ ước mơ trị quốc, bình thiên hạ. Những phong trào đấu tranh yêu nước liên tục nổ ra và bị dập tắt đã tác động mạnh mẽ đến nhà thơ.
Nhận thấy mình không thể tiếp tục con đường quan chức giữa lúc nước mất nhà tan, vị Tam nguyên Yên Đổ xin cáo quan về quê ở ẩn. Tuy vậy, tấm lòng yêu nước, thương dân và nỗi bất mãn sâu sắc trước tình cảnh đau đớn của Tổ quốc chưa bao giờ ngừng giày vò ông.
Nguyễn Khuyến sống thanh bạc tại quê nhà, ngày ngày dạy học và sáng tác thơ. Cốt cách thanh cao, chính trực của một nhà Nho vẫn luôn được ông gìn giữ kể cả khi thực dân Pháp tìm mọi thủ đoạn để mua chuộc.
Cuộc đời Nguyễn Khuyến gắn liền với thi ca, ông sáng tác hơn tám trăm bài thơ chữ Hán và chữ Nôm bằng nhiều thể loại đa dạng. Hồn thơ của thi sĩ là tiếng lòng người yêu quê hương da diết, thương dân chúng và hận thù, châm biếm những kẻ chinh phạt tàn nhẫn.
Ngoài ra, nhà thơ còn viết về làng quê Việt Nam với khung cảnh bình dị và người lao động chất phác. Ngôn từ của Nguyễn Khuyến dân dã mà tinh tế, sự nhuần nhuyễn trong việc vận dụng từ ngữ lẫn các thể thơ đã giúp thi sĩ trở thành một trong những huyền thoại giới thơ ca đất Việt.
Trong gia tài tác phẩm đồ sộ của Nguyễn Khuyến, chùm thơ về mùa thu gồm Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh là những thi phẩm nổi bật, được tán dương trong nhiều thập kỷ. Mùa thu vốn không phải là đề tài xa lạ, nhiều thi sĩ đã mượn cảm hứng từ “nàng thơ” này và sáng tác nên vô số bài thơ độc đáo.
Không khí mát mẻ mà man mác nỗi buồn của mùa thu thường mang lại nhiều cảm xúc đặc biệt, Nguyễn Khuyến cũng cảm nhận được điều này. Giữa trời thu êm ái, nhà thơ đơn độc, lặng lẽ với thú vui câu cá bình dị cùng vô vàn trăn trở, bế tắc ngổn ngang trong lòng.
Câu cá mùa thu vì vậy mà vừa chứa đựng sắc thái mùa thu ở vùng đồng chiêm Bắc Bộ yên tĩnh, vừa bao hàm nỗi suy tư về đất nước, về nhân dân lầm than của người thi sĩ. Chính sự gắn bó tựa máu thịt với quê nhà đã tạo nên cho Nguyễn Khuyến sự thôi thúc sáng tác nên thi phẩm.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú và hàng loạt nghệ thuật viết thơ phong phú, không gian trong thi phẩm được mở ra rồi thu hẹp một cách độc đáo, gợi lên nhiều ý nghĩ sâu sắc với người đọc.
Cảnh thu đẹp đẽ mà đượm buồn trong Câu cá mùa thu
Câu cá mùa thu là bài thơ miêu tả về cảnh thu và tình thu, trong đó sáu câu đầu gồm hai câu đề, hai câu thực, hai câu luận đã vẽ lên bức tranh thu vắng vẻ, phảng phất nỗi buồn còn hai câu kết là tâm sự kín đáo trong lòng Nguyễn Khuyến.
Khung cảnh thiên nhiên trong tác phẩm không rộng rãi, thoáng đãng bởi tác giả đã chọn ao thu, đặc điểm nổi bật của vùng đồng quê để khắc hoạ. Ngay từ hai câu thơ đề, mùa thu đã hiện lên với sự vắng lặng, quạnh hiu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Điểm nhìn của Nguyễn Khuyến bắt đầu từ hình ảnh gần gũi trước mắt đến nơi xa, từ ao thu đến chiếc thuyền cô quạnh trên dòng nước. Nhờ góc nhìn mở rộng này mà cảnh thu trong bài thơ tuy không mênh mông song cũng không eo hẹp hay ngột ngạt.
Vần “eo” được sử dụng xuyên suốt với các từ ngữ là “lạnh lẽo”, “trong veo” và “bé tẻo teo” gợi lên cho độc giả cảm giác hiu hắt, trống vắng. Dẫu vậy, làn nước vào tiết trời mùa thu se lạnh lại trong trẻo tựa như tấm lòng người yêu nước lúc bấy giờ.
Giữa ao thu, hình ảnh chiếc thuyền hiện lên như một dấu hiệu, dấu vết của con người trong đời sống thường nhật. Tuy vậy, chỉ có duy nhất một chiếc thuyền bé nhỏ trôi trên mặt ao tĩnh lặng cũng phần nào nhấn mạnh sự vắng vẻ ở nơi đây.
Không còn chốn quan trường xô bồ, không còn nơi kinh đô phồn hoa, Nguyễn Khuyến sống với thân phận một nhà Nho thanh cao, xa lánh thế sự và gắn bó hết mực với thiên nhiên, người dân quê nhà.
Thi hào học sâu, hiểu rộng là thế nhưng ngôn từ của ông không hoa mỹ mà bình dị bất ngờ, giúp đối tượng miêu tả là “ao thu” và “chiếc thuyền” vốn đã quen thuộc với nông thôn Việt Nam thì nay lại càng gần gũi hơn.
Hai câu thơ đầu mang đến cho độc giả nỗi buồn man mác bởi khung cảnh vắng vẻ, thiếu đi hơi ấm và sự sinh hoạt sôi nổi của con người. Đằng sau khung cảnh thiên nhiên ấy, tâm tình buồn bã, trống vắng của nhà Nho yêu nước cũng được gợi tả một cách khéo léo.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến bộc lộ khả năng quan sát và ngòi bút tài tình khi phát hiện những chuyển đổi nhẹ nhàng của cảnh vật. Hình ảnh làng quê vào mùa thu khẽ thay đổi nhưng không làm cảnh thu mất đi sự tĩnh lặng mà lại tô đậm thêm nét đìu hiu.
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Điểm nhìn của Nguyễn Khuyến lúc này không còn từ gần đến xa mà mở rộng từ vị trí thấp lên cao, mở ra không gian hai chiều đầy hòa hợp. Giữa “ao thu lạnh lẽo”, những làn sóng biếc gợn nhẹ, một chiếc lá vàng chao đảo trước gió rồi rơi xuống trong không gian yên tĩnh.
Đôi mắt của thi nhân dường như không bỏ sót bất kỳ hiện tượng nào, vì thế nên ông có thể tinh tế nhận ra từng chuyển động nhỏ bé. Bên cạnh đó, tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đã mang lại cho nhà thơ tâm hồn sâu sắc với những rung cảm đặc biệt.
Nguyễn Khuyến lấy “cái động” của sóng gợn, lá rơi để nhấn mạnh “cái tĩnh” của vùng quê Bắc Bộ, vài cơn sóng lăn tăn và chiếc lá vàng “khẽ đưa vèo” chỉ làm nổi bật lên sự yên ắng hiện tại. Những hiện tượng bất chợt ấy không phá vỡ khung tranh tĩnh tại hoàn hảo nhưng cũng phần nào điểm xuyết cho cảnh thu.
Tiếp nối với vần “eo” sử dụng ở hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến dùng từ “vèo” biểu thị cho sự vội vã, chớp nhoáng để kết thúc câu thơ thứ tư. Nhà thơ Tản Đà đã tấm tắc ngợi khen vị Tam nguyên Yên Đổ là “bậc thầy về tài luyện chữ” chỉ bằng một chữ “vèo” độc đáo này.
Thật vậy, Nguyễn Khuyến không ưa chuộng việc sử dụng từ ngữ mỹ miều, sáo rỗng mà thích những cụm từ dân dã, gần gũi. Tuy nhiên, ngôn từ trong thơ ông vẫn giữ nét trong sáng của tiếng Việt và gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả.
Một trong những điểm đặc sắc ở Câu cá mùa thu là điểm nhìn của Nguyễn Khuyến khi quan sát cảnh vật. Nếu như với hai câu thơ thứ ba và thứ tư, nhà thơ quan sát không gian từ thấp đến cao thì trong hai dòng thơ kế tiếp, tác giả lại nhìn cảnh thu từ trời cao xuống ngõ trúc.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
“Tầng mây”, “trời xanh”, “ngõ trúc” là ba hình ảnh quen thuộc ở vùng nông thôn Việt Nam và thường xuất hiện trong những tác phẩm văn học. Trong Câu cá mùa thu, các hình tượng này phủ đầy nét yên lặng, mang đến cảm xúc hụt hẫng mà ngổn ngang cho độc giả.
Vài đám mây bay “lơ lửng” trên nền trời “xanh ngắt” thật yên bình, chúng trôi đi một cách tự do, tự tại giữa bầu trời trong vắt. Cảnh đẹp là thế song chỉ có thi nhân lặng lẽ ngắm nhìn, thiếu vắng sự sinh hoạt của người nông dân cần cù.
“Ngõ trúc quanh co” xuất hiện gần gũi song không có người qua lại mà “vắng teo”. Sự thanh vắng bình dị, có phần đượm buồn khiến không gian nơi đây dường như chỉ có nhà thơ cùng nỗi cô đơn.
Vần “eo” lại một lần nữa xuất hiện, đẩy sự vắng vẻ, quạnh hiu đến mức cùng cực. Cảnh thu của làng quê Việt Nam se lạnh, thanh bình song yên tĩnh lạ thường, làm cho hình ảnh thi sĩ cũng trở nên nổi bật trong buổi chiều thu.
Với sáu câu thơ miêu tả cảnh thu, Nguyễn Khuyến đã vận dụng nghệ thuật đối, từ láy và những hình tượng thân quen để khắc họa bức tranh quê Bắc Bộ. Tuy đẹp đẽ nhưng tràn ngập nét vắng lặng, đìu hiu, gợi lên nỗi mất mát về thời cuộc loạn lạc lúc bấy giờ.
Hồn thu thư thái mà đầy trăn trở
Sáu câu thơ mô phỏng vùng đồng bằng chiêm không chỉ nhằm khắc hoạ cái đẹp làng quê Việt Nam mà còn thể hiện tình yêu Nguyễn Khuyến dành cho thiên nhiên. Trong bức tranh ấy, chẳng có hình ảnh con người hoạt động sôi nổi mà chỉ có bóng dáng chiếc thuyền trôi trên mặt nước.
Đến hai câu kết, thi sĩ mới ẩn ý về sự tồn tại của mình và thú vui câu cá tao nhã sau khi từ quan. Đối với Nguyễn Khuyến, câu cá vừa là hình thức giải trí, thư giãn vừa là dịp để ngẫm nghĩ về thế sự.
“Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Trong buổi chiều thu mát mẻ, nhân vật trữ tình ngồi “tựa gối”, “buông cần”, một tư thế đầy thoải mái. Mục đích nhà thơ câu cá là để bồi đắp cho tâm hồn thanh thản, quên đi nỗi sầu muộn về nước nhà.
Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến không chú ý vào hoạt động này mà chỉ đắm chìm trong những suy tư bất định. Ông ngồi câu đã lâu nhưng dường như không chờ cá đớp mồi, hình ảnh nhà thơ lúc này đã hòa làm một với thiên nhiên.
Bao quanh Nguyễn Khuyến là cảm xúc yêu thương trước phong cảnh hữu tình, sự thư thái cùng những suy nghĩ về dân, về nước. Vì không mấy tập trung vào việc câu cá nên tác giả đã ngạc nhiên tự hỏi “Cá đâu đớp động” khi nghe âm thanh dưới chân bèo.
Tiếng động đó là nét điểm xuyết vào không gian vắng vẻ, dùng chuyển động khe khẽ để nhấn mạnh nét tĩnh lặng của bức tranh thu. Ngoài ra, tiếng cá đớp cần câu cũng là “hồi chuông” gọi Nguyễn Khuyến trở về với hiện thực mất mát.
Hồn thu trong Câu cá mùa thu nhẹ nhàng mà đầy suy tư, thể hiện qua hình ảnh vị Tam nguyên Yên Đổ cùng thú vui trong buổi chiều lạnh lẽo, vắng lặng. Nhẹ nhàng bởi dáng vẻ âm thầm, đầy suy tư bởi hàng loạt trăn trở vần vũ trong tâm trí Nguyễn Khuyến.
Câu cá mùa thu đã chạm đến trái tim của những nhà phê bình
Trên thi đàn văn học Việt Nam, Nguyễn Khuyến nổi tiếng với vô số bài thơ Nôm mang đậm dấu ấn làng quê. Thậm chí, vị Tam nguyên Yên Đổ còn được Xuân Diệu ưu ái gọi là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
“Thơ Yên Đỗ vẫn phảng phất bay lượn giữa quê hương đồng chiêm trũng Hà Nam, trên quê hương làng mạc Việt Nam tất cả; bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên một tình yêu quê hương làng mạc trong văn học, tình yêu đồng bào, bà con dân quê trong xóm mình.” – Xuân Diệu
Đối với Câu cá mùa thu, Xuân Diệu khẳng định rằng tác phẩm này và Thu vịnh, Thu ẩm là những “bài thơ Nôm nức danh nhất” của Nguyễn Khuyến. Quang cảnh làng quê Bắc Bộ giữa ngày thu được thi sĩ miêu tả theo phương cách dung dị, chân thật mà đầy tinh tế.
Nhà thơ Mã Giang Lân đánh giá rằng thơ Nguyễn Khuyến là “độc nhất vô nhị”, dẫu có nhiều thi nhân từng viết về cảnh quê song chưa một ai vượt qua ông. Mã Giang Lân còn cho rằng các bài thơ về cảnh vật, con người thôn quê chính là nét đặc trưng nổi bật của Nguyễn Khuyến.
“Trước đó cũng có những nhà thơ viết về làng cảnh Việt Nam nhưng chưa có ai để lại ấn tượng sâu đậm bằng Nguyễn Khuyến.” – Mã Giang Lân
Tâm hồn sâu sắc, bút lực tài hoa và tình yêu thương mãnh liệt dành cho quê hương là những yếu tố hun đúc nên Câu cá mùa thu. Nhà thơ Nguyễn Khuyến gắn chặt với làng quê đến mức từng khung cảnh, từng sự vật như trở thành một phần máu thịt trong ông.
Nhờ vậy, không chỉ người cùng thời mà cả các nhà phê bình văn học hiện đại cũng đánh giá cao Nguyễn Khuyến cùng Câu cá mùa thu. Tạp chí Giáo dục và Thời đại đã đưa ra những lời bình trung thực mà chuẩn xác về phong cách thơ Nguyễn Khuyến trong tác phẩm này.
“Chân dung tinh thần của Nguyễn Khuyến trong Thu điếu vừa mang dáng vẻ của một nhà Nho lạc bước giữa thời cuộc vừa mang vẻ đẹp thuần khiết của một tâm hồn yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước.” – Trần Thị Thanh Nga, Tạp chí Giáo dục và Thời đại
Không ngoa khi độc giả nhận định rằng Câu cá mùa thu là kiệt tác về phong cảnh làng quê Việt Nam và tâm hồn nhà Nho trong thời kỳ đất nước loạn lạc. Chính phẩm chất cao quý và tài năng ấy đã tạo ra một thi phẩm với khả năng chinh phục mọi trái tim độc giả.
Tình thu còn mãi nơi này
Đã nhiều thập kỷ trôi qua kể từ thời điểm Câu cá mùa thu ra đời, bài thơ vẫn luôn là ví dụ tiêu biểu cho những tác phẩm độc đáo về cảnh thu, hồn thu. Nét đẹp bình yên mà hỗn độn, dịu dàng mà sâu sắc trong từng ý thơ thấm nhuần vào tâm trí người đọc như vết son khó phai nhoà.
Trên hành trình sáng tác, Nguyễn Khuyến đã để lại nhiều tác phẩm cho đời bằng ngòi bút ấn tượng của mình. Trong số đó, Câu cá mùa thu tựa những dòng nhật ký ghi lại tấm lòng một người yêu nước vào thời điểm Tổ quốc chịu nhiều mất mát.
Hồn thơ của Câu cá mùa thu đã xuất hiện vào thuở quê nhà lầm than và sẽ tồn tại mãi trên thi đàn Việt Nam. Bởi lẽ, giá trị mà thi phẩm mang lại không có tính lâm thời mà bền vững với mọi thời đại.
Bích Thuỳ
Bích Thùy
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất