Trong nền văn học Việt Nam cả trước và sau thời kỳ đổi mới, sẽ là một thiếu sót nếu như không nhắc đến tên tuổi của thi sĩ Nguyễn Duy. Người nghệ sĩ ấy luôn say mê cống hiến, để lại cho đời nhiều tác phẩm giàu ý nghĩa.
Tuy nhiên, ngòi bút nhà thơ chỉ thực sự thăng hoa cũng như đạt đến đỉnh cao khi viết về làng quê thôn dã với thể thơ lục bát quen thuộc. Tre Việt Nam chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thi ca Nguyễn Duy, tái hiện hình ảnh lũy tre gần gũi.
Phong cách thơ ca của Nguyễn Duy và tác phẩm Tre Việt Nam
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948 ở tỉnh Thanh Hóa. Ông bước chân vào lĩnh vực thơ ca từ khá sớm, ngay từ khi còn học tập tại trường cấp Ba, Lam Sơn.
Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, nhà văn từng có một thời tuổi trẻ oanh liệt, gắn liền với khói lửa và bom đạn. Chính quãng thời gian đó về sau đã trở thành vốn tư liệu quý sau này cho trang thơ của tác giả.
Nguyễn Duy tham gia sáng tác thơ ca cả trước và sau thời kỳ đất nước đổi mới. Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, thi sĩ cũng luôn hướng tâm thức về làng quê Việt Nam với thái độ trân trọng, nâng niu.
Mạch nguồn cảm xúc trong thơ Nguyễn Duy bắt nguồn từ những điều quen thuộc và bình dị ở cuộc sống đời thường. Viết về mảnh đất có giếng nước, cây đa, “nhà thơ thảo dân” này đều mang đến cho độc giả nhiều góc nhìn thú vị mà ít ai chú ý tới.
Khi khai thác chất liệu mộc mạc ấy, Nguyễn Duy thường lựa chọn thể thơ lục bát gắn liền với lời ăn tiếng nói người Việt. Vì vậy, câu chữ của ông đều thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc, gợi dậy trong lòng độc giả niềm kính yêu cội nguồn.
Một số tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ mang đậm bản sắc quê hương của thi sĩ phải kể đến là Hương cau trong đất, Khúc dân ca, Tiếng hát mùa gặt, Về làng hay Tre Việt Nam.
Trong số đó, Tre Việt Nam được ví như bài thơ xuất sắc nhất, thể hiện rõ tài năng tác giả khi vận dụng tài tình thể thơ truyền thống dân tộc. Thi phẩm xuất bản năm 1955 và là lời bình cho bộ phim Cây tre Việt Nam của đạo diễn Ba Lan.
Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng cây tre, thứ gắn bó với đất nước từ thuở hồng hoang, khi chiến tranh loạn lạc đến tận ngày hôm nay. Ngoài ra, nó còn ẩn dụ cho phẩm chất cao đẹp, sáng ngời của dân tộc máu đỏ da vàng.
Lời giới thiệu giản dị và mộc mạc trong Tre Việt Nam
Ngay khi vừa xuất hiện, bài thơ đã nhận được nhiều lời đánh giá tốt từ giới phê bình cũng như độc giả. Người ta trân trọng và yêu quý cây tre làng như cái cách mà tác giả đặt trọn lòng mình vào thi phẩm.
Nguyễn Duy gây ấn tượng bởi cách mở đầu tác phẩm vô cùng đặc biệt. Thay vì lý giải xuất xứ của cây tre dưới góc độ khoa học, ông lại ước lượng bằng “chuyện ngày xưa”.
Hình ảnh lũy tre xuất hiện từ rất lâu, trong lời ca dao và câu chuyện người lớn vẫn thường kể. Chẳng ai biết thời điểm loài cây kiên cường này có mặt nhưng chắc chắn nó đã ở bên, chứng kiến mọi giai đoạn dựng xây đất nước của cha ông.
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh.” – Tre Việt Nam
Từng câu chữ viết ra mang đậm chất dân gian và mộc mạc, gần gũi đời sống nhân dân Việt Nam. Tuy vậy, người đọc vẫn cảm nhận được sự phá cách, hiện đại khi Nguyễn Duy tách câu thơ sáu chữ thành hai dòng khác nhau.
Không chỉ vậy, việc sử dụng dấu chấm lửng ở cuối câu càng làm tăng thêm tính mơ hồ khi lý giải nguồn gốc cây tre. Nó tạo nên khoảng không im lặng, khiến độc giả phải lắng mình, chìm đắm vào không khí làng quê yên bình rì rào tiếng tre xanh.
Tre Việt Nam và những phẩm chất tốt đẹp
Trong khi văn thơ Việt Nam xưa nay thường viết về trúc thì Nguyễn Duy lại chọn tre làm hình tượng trung tâm bài thơ. Điểm đột phá này của ông có sự tương đồng với Thép Mới khi văn sĩ cũng từng ngợi ca loài cây chân chất, giản dị.
Tuy nhiên, tài năng văn học của Nguyễn Duy đã mang đến cho tác phẩm những nét khác biệt và độc đáo vượt trội. Không dừng lại ở miêu tả đơn thuần, nhà thơ gọi dậy cái hồn, khiến cây tre trở thành một sinh thể sống, có những đức tính tốt đẹp.
Tinh thần kiên cường của cây tre Việt Nam
Không giống các loài khác, cây tre có phần gầy guộc, mảnh mai với những chiếc lá nhỏ bé, thon dẹp. Có lẽ vì tự ý thức được điều đó nên chúng luôn sống gắn bó và chan hòa, kết thành lũy để cùng nhau đương đầu khó khăn.
Loài tre ấy còn dũng cảm vượt lên những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt để thích nghi, sinh sôi và phát triển. Đặc điểm này có phần tương đồng với người dân Việt Nam khi không bao giờ chùn bước trước mọi nghịch cảnh.
“Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu” – Tre Việt Nam
Nguyễn Duy còn nhận ra rằng, sự khắc nghiệt của môi trường sống thậm chí trở thành động lực để chiếc rễ cần mẫn hút chất dinh dưỡng nuôi sống thân. Chúng nhẫn nại và bền bỉ, vươn xuống tầng sâu đất, chắt chiu từng giọt mỡ màu.
Khó khăn và vất vả là thế nhưng tre vẫn luôn giữ cho mình một thái độ lạc quan đối với cuộc sống. Cụm từ “Có gì đâu” được tác giả sử dụng đến hai lần đã nhấn mạnh cách nhìn đời tích cực của loài cây này.
“Có gì đâu, có gì đâu,
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều.” – Tre Việt Nam
Nếu như tre biết cách “vươn mình” đối đầu với những cơn gió mạnh để “ru ngủ” lá cành thì con người Việt Nam cũng yêu thương lẫn nhau dẫu trong đau thương, mất mát. Họ dìu dắt nhau qua những năm tháng gian lao, cùng xoa dịu nỗi nhọc nhằn.
Tinh thần đoàn kết và sự đùm bọc lẫn nhau trong Tre Việt Nam
Tư duy thơ mới lạ của Nguyễn Duy bộc lộ rõ khi ông miêu tả cây tre hệt như người dân Việt Nam với tính cách chất phác, hồn hậu. Dù trải qua nhiều đợt bão tố thì họ vẫn giữ tấm lòng thiện lương, đùm bọc và cưu mang nhau.
“Bão bùng thân bọc lấy thân,
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm.” – Tre Việt Nam
Chính lòng nhân ái đã tiếp thêm sức mạnh, giúp loài cây này sinh tồn ở cả những mảnh đất cằn cỗi. Vì thương nhau nên tre không ở riêng, đó cũng là cách thi sĩ lý giải nguyên nhân chúng thường mọc thành lũy hay khóm.
Nếu chẳng may bị đổ ngã thì loài cây kiên cường này không hề biến mất mà từ gốc tre mọc lên những búp măng non căng tràn sức sống. Tới giây phút cuối cùng, chúng vẫn để lại cho đời màu xanh hy vọng, tiếp tục viết tiếp cuộc hành trình.
Dường như những chiếc búp bé nhỏ vươn mình trỗi dậy từ gốc rễ cũng thấu hiểu được mong muốn của thế hệ đi trước. Vì thế khi có mặt trên cõi đời, chúng luôn trong tư thế đứng thẳng, kiêu hãnh vươn lên bầu trời trong xanh.
“Nòi tre đâu chịu mọc cong,
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường.” Tre Việt Nam
Thi sĩ đã vận dụng vô cùng khéo léo và hợp lý biện pháp tu từ so sánh “nhọn như chông” để nhấn mạnh đặc tính tre. Loài cây này cũng giống người dân đất Việt khi luôn gìn giữ bản chất trong sạch trong mọi hoàn cảnh.
Đâu chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Duy còn ví cây tre hệt một người mẹ suốt đời tảo tần phơi mình trong gió sương mà không có manh áo ấm như những loài khác. Dẫu vậy, chúng chưa bao giờ oán trách, luôn dành điều tốt đẹp nhất cho măng non.
Tre hy sinh và chăm chút cho những búp măng non một cách chu đáo bởi lẽ mai này đây, chúng sẽ lớn khôn rồi kế thừa truyền thống tốt đẹp của tổ tiên. Đã là tre thì muôn đời đều đứng thẳng, gắn bó với nhau để kết nên từng lũy, từng chùm.
“Măng non là búp măng non,
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre.” – Tre Việt Nam
Điệp từ “măng non” được lặp lại đến hai lần đã khẳng định bản lĩnh của thế hệ tiếp theo. Chúng sẽ mãi khắc ghi công lao người đi trước, tiếp tục sứ mệnh phủ sắc xanh khắp mọi miền trên đất nước Việt Nam
Nhịp điệu bài thơ dần trở nên lắng đọng, giàu suy tư hơn khi tác giả đưa người đọc vào dòng chảy miên man của thời gian. Nó như một quy luật tất yếu mà không cá nhân nào có thể đứng ngoài hay cản bước.
Tre cũng không phải là ngoại lệ nhưng phẩm chất cũng như truyền thống của chúng sẽ luôn được lưu giữ bởi lớp măng non. Nó giống với thế hệ người trẻ Việt, không ngừng phấn đấu, nỗ lực bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp mà cha ông để lại.
Tre Việt Nam và những khoảng lặng trong thơ
Thai nghén nên tác phẩm Tre Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy đã đặt trọn tấm lòng trong từng trang giấy. Những câu chữ ông viết ra vừa giàu giá trị biểu đạt, lại ẩn chứa các khoảng không thi vị, ẩn giấu nhiều tầng nghĩa khác nhau
Thi sĩ trân trọng và nâng niu loài cây gắn bó với nơi làng quê ruộng đồng. Từ thuở còn nằm trong nôi nghe tiếng bà ru, mọi người đã tờ mờ nhận ra sự hiện diện của tre, từ ca dao, dân ca cho đến cổ tích, thần thoại.
Dấu chấm lửng xuất hiện ở đầu bài như để bày tỏ mảnh cảm xúc mơ màng không thể diễn tả thành lời ấy của tác giả khi nhớ về miền xa xưa. Nó khiến độc giả phải lục lại những đoạn ký ức đứt đoạn, lục tìm hình ảnh cây tre xanh.
“Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh.” – Tre Việt Nam
Câu chữ trong tác phẩm là thứ ngôn ngữ đã được thi vị hóa, không thể cắt nghĩa bằng cách thông thường mà phải giải mã thông qua trái tim. Điều đó làm nên sức hút của thơ ca hiện đại, hối thúc người đọc không ngừng tìm tòi và sáng tạo.
Những câu kết của Tre Việt Nam được Nguyễn Duy chắp bút dựa theo mạch cảm xúc tâm hồn. Sự tin tưởng về tương lai tươi sáng với “tre già, măng mọc” đã giúp ông viết nên đoạn thơ lắng đọng, giàu suy tư.
“Mai sau,
Mai sau,
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.” – Tre Việt Nam
Việc sử dụng tận ba từ “xanh” ở cùng một khổ thơ đã khiến sắc màu tươi sáng ấy lấp đầy khoảng trống trong câu chữ để men theo thời gian, trường tồn với đất Việt.
Nét tính cách con người Việt qua hình tượng cây tre
Tác phẩm lay động tâm hồn người thưởng thức không chỉ nhờ vào những dòng thơ miêu tả chân thật hình ảnh cây tre thân thuộc mà còn bởi việc gợi dậy nét tính cách đậm chất Việt Nam.
Nếu tre sống thành lũy, thành chùm thì nhân dân Việt Nam cũng suốt đời đoàn kết và bao bọc, phát huy truyền thống “thương người như thể thương dân”. Dù trong hoàn cảnh nào, họ vẫn giữ lòng nhân ái, bảo ban và và bao dung cho nhau.
Đứng trước tình huống cam go trên chiến trường hay sự khắc nghiệt của hoàn cảnh sống, người dân vẫn gìn giữ bản chất trong sạch, không chấp nhận lối sống luồn cúi và buông thả.
Họ sẵn sàng hy sinh bản thân để đổi lấy một tương lai sáng lạn cho con cái, tương tự như cái cách loài tre phơi thân mình ngoài gió sương, chở che những búp măng non mới nhú.
Tre là bạn đồng hành thủy chung với nhân dân suốt quá trình dựng và giữ nước. Nó ăn sâu vào tâm thức mỗi người để rồi khi xuất hiện trong thi ca, loài cây ấy lại mang trong mình cốt cách thanh cao như dân tộc Việt.
Bên cạnh việc phác họa hình ảnh cây tre thân quen ở nông thôn, Nguyễn Duy còn khéo léo lồng ghép vào bài thơ cả bức chân dung con người với những phẩm chất cao đẹp.
Vẻ đẹp của nghệ thuật trong tác phẩm
Làm nên sự thành công vang dội cho thi phẩm, không thể không nhắc đến những đặc sắc nghệ thuật từ bàn tay tài hoa của Nguyễn Duy. Nhiều năm “lăn lộn” trong nghề đã khiến câu chữ nhà thơ thăng hoa, làm say đắm độc giả.
Ông là một trong số ít cây bút luôn nỗ lực làm mới và hiện đại hóa thể thơ lục bát, tạo nên sự độc đáo cho cấu tứ cũng như hình ảnh. Với Tre Việt Nam, thi sĩ đã gây ấn tượng bởi cách ngắt nhịp mới mẻ, sử dụng lối thơ rớt dòng ở câu sáu tiếng.
“Tre xanh
Xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh?
Mai sau
Mai sau
Mai sau…
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.” – Tre Việt Nam
Nhà thơ còn tiếp thu yếu tố tự thuật trong văn xuôi và đưa vào thể thơ truyền thống, vừa tự nhiên lại giữ được nhịp điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Toàn bộ tác phẩm là lời thủ thỉ, tâm sự của tre về chính cuộc đời ý nghĩa mà mình đang sống
Gắn bó với tiếng hò, câu hát từ thuở bé nên Nguyễn Duy rất ý thức trong việc gìn giữ giá trị văn hóa tốt đẹp ấy. Ông nhiều lần đưa thành ngữ, ca dao vào trong thơ, qua đó khơi dậy những giai điệu quen thuộc của văn học dân gian.
Tác phẩm còn có sự kết hợp hài hòa giữa cái duyên dáng, trữ tình với chất thế sự đậm đặc, đôi khi là tiếng nói khẳng khái, hùng hồn mà vẫn trầm tĩnh, giàu chiêm nghiệm sâu sắc.
Hơn nữa, Nguyễn Duy cũng sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, liên tưởng đầy thú vị như “Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành”, “Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm”. Điều này khiến “nhân vật tre” càng thêm gần gũi với đời sống cũng như con người Việt Nam.
Tài năng văn học của nhà thơ Nguyễn Duy cùng với tác phẩm Tre Việt Nam sẽ mãi đi cùng thời gian,năm tháng. Nó để lại trong lòng người đọc sự kính trọng và trân quý cây tre cũng như phẩm chất con người Việt.
Hạ Miên
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất