Mỗi tác phẩm đều soi bóng thời đại mà nó được ra đời, vì thế mỗi sáng tác không chỉ có ý nghĩa văn chương nghệ thuật mà còn mang cả tầm vóc lịch sử, hào khí dân tộc trong từng trang giấy và Bình Ngô đại cáo chính là một kiệt tác như thế.
Bình Ngô đại cáo ra đời sau chiến thắng giặc Minh, nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia và nêu cao tinh thần yêu nước của nhân dân nước Đại Việt. Đối với mỗi người dân, tác phẩm chính là một áng thiên cổ hùng văn sáng ngời trên nền trời độc lập.
Cuộc đời lẫy lừng lưu danh trong sử sách của văn hào Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu Ức Trai, cha tên Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, người trong dòng dõi quý tộc thời Trần.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình yêu nước, có truyền thống văn học, nhiều đời làm quan triều đình. Những điều đó phần nào cũng ảnh hưởng đến tính cách xen lẫn tài năng của bậc anh hào dân tộc.
Tuy tuổi thơ trải qua nhiều sóng gió và đau thương nhưng ông vẫn hết lòng phụng sự cho Tổ quốc. Không chỉ là nhà quân sự, chính trị gia lỗi lạc mà Ức Trai còn được biết đến như một văn hào kiệt xuất, ngọn cờ tiên phong trong việc phát triển nền văn hoá dân tộc.
Đương lúc nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, Nguyễn Trãi tìm đến vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn để trao bản chiến lược đánh đuổi quân giặc mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Sau khi xem xong mưu kế, Lê Lợi đã phong chức Tuyên phong đại phu Thừa chỉ Hàn Lâm viện cho ông.
Sau này, trong bài tựa Ức Trai thi tập, Ngô Thế Vinh là một chính trị gia kiêm nhà thơ thời vua Minh Mạng cũng đã dành những lời bình về kế sách của bậc anh hùng dân tộc.
“Hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người.” – Ức Trai thi tập (Ngô Thế Vinh)
Tuy nhiên, cuộc đời lại không mấy tốt đẹp, năm 1442, Nguyễn Trãi rơi vào vụ án Lệ Chi Viên hiếm có trong lịch sử, kết thúc cuộc đời trong sự uẩn ức và oan nghiệt khi gia quyến họ Nguyễn bị kết án tru di tam tộc.
Công danh của Nguyễn Trãi thật huy hoàng, vĩ đại, xứng danh bậc anh hùng kiệt xuất, tinh hoa dân tộc. Nổi bật ở ông là tấm lòng yêu nước, yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang.
“Công giúp hồng đồ cao nữa (tựa) núi
Danh ghi thanh sử sáng bằng gương.” – Thượng thư bộ Lễ triều Mạc Hà Nhậm Đại nhận xét về Ức Trai tiên sinh
Cả cuộc đời dành trọn cho quê hương, nhà chính trị quân sự ưu tú đã dốc hết tâm hồn, trí tuệ và tài năng thiên bẩm nhằm phục vụ lợi ích dân tộc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dẫn đường để phong trào đi đến thắng lợi, góp phần cắm cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của đất nước.
“Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo.” – Nguyễn Trãi
Ức Trai có quan điểm sống nổi bật bởi sự hòa quyện, chắt lọc tam giáo đồng nguyên và nội dung cốt lõi theo suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng chính trị của ông chính là nhân nghĩa.
Tư tưởng ấy rất cao cả, vượt qua khỏi mối quan hệ chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành chuẩn mực của đường lối đức trị, đồng thời góp phần xây dựng nền tảng nguyên tắc trong việc lãnh đạo một quốc gia.
Nguyễn Trãi đã đặt những viên gạch đầu tiên cho nền văn hoá nước Việt và nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh, tổ chức UNESCO công bố quyết định công nhận ông là Danh nhân văn hoá thế giới, một trong mười bốn anh hùng tiêu biểu Việt Nam.
Đại thi hào với sự nghiệp văn chương tuyệt đỉnh
Nguyễn Trãi không chỉ có nhiều đóng góp trong cục diện chính trị mà còn để lại kho tàng quý giá cho nền văn học trung đại Việt Nam và các tác phẩm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị đến ngày nay như Quốc âm thi tập, Chí Linh sơn phú.
Nguyễn Trãi đã gửi gắm những tư tưởng, triết lý nhân sinh sâu sắc trong các tác phẩm văn học và đó cũng chính là kết quả trải nghiệm của một đời người, một nhân cách cứng cỏi, phẩm chất thanh cao.
Chủ nghĩa yêu nước trong văn chương của ông không thể hiện một cách trừu tượng mà thổ lộ rõ ràng qua các hành động, gắn chặt trọng trách đấng nam nhi với thời đại và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Từ đó, chuyển biến tư tưởng ấy thành tinh thần hào khí Đông A, thành công phát triển ở tính chiến đấu mạnh mẽ của dân tộc, trở thành truyền thống chống giặc cứu quốc trong lịch sử, phất lên ngọn cờ rực rỡ cho văn học yêu nước thế kỉ XV.
Các sáng tác của ông đều được viết bằng chữ Hán và Nôm bao gồm nhiều lĩnh vực như lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi, đặc biệt là văn học, tuy nhiên có một số đã bị thất lạc từ sau vụ án Lệ Chi Viên.
Trong đó, Quân trung từ mệnh tập là quyển sách có ý nghĩa quân sự, tổng hợp những bức thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Thái Tổ gửi cho tướng nhà Minh khi diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, với chiến lược “công tâm” đã chứng minh ý tứ văn chương của ông “có giá trị hơn mười vạn binh”.
Đặc biệt, Nguyễn Trãi có sự nghiệp văn học vô cùng phong phú, các tác phẩm phần lớn được sưu tầm, tổng hợp trong bộ Ức Trai thi tập của Dương Bá Cung, khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn và Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm cổ nhất Việt Nam còn lại đến ngày nay.
Trong sự nghiệp văn chương đồ sộ, tác phẩm để lại tiếng vang lớn trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam là kiệt tác Bình Ngô đại cáo, áng thiên cổ hùng văn sáng ngời được xem như minh chứng cụ thể cho ngòi bút tuyệt đỉnh của văn hào Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo là mốc son chói lọi mở ra thời đại huy hoàng trong lịch sử
Kiệt tác ra đời với một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt vào cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù, hàng loạt những chính sách ngoại giao được thực hiện nhằm để nhân dân trong nước và khiến nhà nước phương Bắc phải thừa nhận sự chính thống của vương triều mới.
Suốt mấy chục năm chịu ách nô lệ của nhà Minh và quá khứ Bắc thuộc như bóng ma day dứt trong tâm trí người Việt, nhân dân thì mất lòng tin vào triều đại trước nên không còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến.
Đây cũng là lúc triều đại mới cần văn kiện hợp pháp nhằm tuyên bố với toàn dân, xác lập chủ quyền quốc gia, lãnh thổ. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có nhiệm vụ quan trọng khi phải truyền tải được lòng tin với đất nước, khơi gợi hào khí và niềm tự hào dân tộc.
Năm 1428, sau khi Lê Lợi dẹp yên giặc Minh, liền sai Nguyễn Trãi thay lời Bình Định Vương soạn thảo bài cáo viết bằng văn ngôn để tuyên bố chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.
“Ngày mười bốn tháng tư, Nhà vua lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận thiên. Bèn sai Nguyễn Trãi làm bài Bình Ngô đại cáo.” – Lam Sơn thực lục
Đại cáo được dùng để chỉ văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ mười tám triều Minh. Hồng Vũ cũng chính là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, người có công khai sáng ra nhà Minh, làm hoàng đế Trung Hoa khoảng thời gian 1368.
Như vậy, Nguyễn Trãi muốn cho thiên hạ thấy rằng, bài cáo là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, sánh ngang với các văn bản nhà nước mà Minh Thái Tổ đã ban bố.
Nếu như Trung Hoa có văn kiện của Chu Nguyên Chương tượng trưng cho uy quyền và công cụ bảo vệ nhà Minh thì ở Đại Việt, Nguyễn Trãi thay vua dùng Bình Ngô đại cáo tuyên bố cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược giành được thắng lợi, khẳng định độc lập dân tộc.
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ nhằm mục đích khẳng định nền độc lập, tự chủ dân tộc mà còn thể hiện đề cao vai trò của nhân dân xuyên suốt quá trình chống giặc, cứu nước và ý nghĩa thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Ông khéo léo dùng những con chữ nhằm chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nêu cao truyền thống yêu nước và sức mạnh toàn dân đoàn kết hợp lực để bảo vệ từng tấc đất biên cương đã đem đến thắng lợi vẻ vang trong lịch sử.
Sau bài Nam quốc sơn hà thì Bình Ngô đại cáo được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Đại Việt. Đây là tác phẩm văn học có chức năng hành chính quan trọng với lịch sử dân tộc, hàm chứa nhiều triết lý nhân sinh, tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp.
Ở kiệt tác Bình Ngô đại cáo, nhân dịp chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi đã bày tỏ cho quần chúng thấy đạo lý lớn nhất của đất nước “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, nội dung đó cũng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm.
“Bình Ngô Đại Cáo không câu nào không là lời nhân nghĩa, trung tín; Lam Sơn Thực Lục không chỗ nào không là đạo tu tề trị bình.” – Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận (Lê Tung)
Định nghĩa về thể cáo là loại văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng cho việc trình bày chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết.
Bình Ngô đại cáo là văn bản có kết cấu gồm năm phần, mang tính chất thông báo và sáng tác theo thể biền ngẫu. Nguyên tác chữ Hán được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt.
Tác phẩm được viết theo bố cục một bài cáo bao gồm phần nêu luận đề chính nghĩa, sau đó liệt kê, kể về các tội ác của giặc, tiếp theo sẽ tổng kết quá trình khởi nghĩa và cuối cùng là tuyên bố xác lập hòa bình.
Nó được xem là một tác phẩm xuất sắc không chỉ mang lại giá trị cho nền lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học trung đại Việt Nam.
Để hiểu một cách tường tận ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo, độc giả cần quan tâm đến hàm ý trong chữ “bình Ngô”. Bởi lẽ “Ngô” ở đây nhằm mục đích chỉ chung các triều đại phong kiến phương Bắc, gợi lên nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân về tội ác mà bọn chúng đã gây ra trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc.
Như vậy, nếu tổng hợp lại thì “Bình Ngô đại cáo” tức là lời tuyên cáo rộng rãi về việc bình định đất nước, thiết lập chế độ cai trị, công bố sự ra đời triều đại mới, mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng của dân tộc.
Tác giả khéo léo kết hợp một cách uyển chuyển giữa giá trị hiện thực của lịch sử với chất sử thi anh hùng bằng lối văn mẫu mực, mang đậm nét đặc trưng văn hoá dân tộc qua ngòi bút tài hoa, tri thức uyên thâm.
Tác phẩm thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn vốn có của dân tộc với tinh thần bất khuất và tư tưởng nhân nghĩa. Bình Ngô đại cáo xứng danh là áng thiên cổ hùng văn tổng kết lại quá trình mười năm nghĩa quân Lam Sơn chống giặc thù xâm lược.
Tư tưởng nhân nghĩa là giá trị cốt lõi trong Bình Ngô đại cáo
Các tác phẩm tiêu biểu như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo là những cột mốc cho hành trình lịch sử vẻ vang của dân tộc cũng như tiến trình văn học trung đại Việt Nam.
Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ được viết trong giai đoạn diễn ra các cuộc kháng chiến cứu nước để bảo vệ sự tự do của Đại Việt còn Bình Ngô đại cáo thể hiện chiến thắng vang dội sau khi đã đánh bại giặc ngoại xâm, giải cứu nhân dân thoát khỏi ách nô lệ.
Trong bối cảnh sứ mệnh nhà Trần kết thúc, vị hào trưởng ở đất Lam Sơn đã nhận ra vai trò lớn lao của nhân dân đối với lịch sử và họ cũng chính là những người quyết định cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ đó, nhiệm vụ quy tụ sức mạnh toàn dân được xem như yêu cầu hàng đầu mà lịch sử đề ra với những người tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đặc biệt là trọng trách to lớn của thủ lĩnh Lê Lợi.
Việc lấy dân làm gốc cũng là tư tưởng chủ đạo trong thời đại kháng chiến chống quân Minh, điều này đã được Nguyễn Trãi đề cập xuyên suốt bài cáo. Nó xuất phát từ lòng yêu nước, vì điều thiêng liêng ấy mà sẵn sàng đánh đuổi các thế lực xâm lược.
“Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Không chỉ xuất hiện ở câu văn mở đầu mà số lượng từ ngữ, hình ảnh gợi tả về quần chúng nhân dân chiếm tỉ lệ tương đối cao trong bài, làm tác phẩm nổi bật so với các sáng tác của thời kỳ trước.
Bởi lẽ, từ “dân” được thể hiện ở bài cáo nhằm đề cập đến tập hợp nhiều tầng lớp khác nhau gồm dân đen, đàn bà, các phu, dịch cùng những người bị bóc lột sức lao động, còng lưng mài ngọc, đi kiếm vàng và bị đày đọa trong kiếp sống nô lệ.
Tuy nhiên trong thơ văn Lý Trần thì ít chú ý đến nhân dân mà chủ yếu khắc hoạ chân dung của các tên quan lại. Điều đó chứng tỏ rằng lịch sử thời đại kháng Minh cần phá bỏ lối tư duy lạc hậu khi bị chi phối về giai cấp và không đề cao vai trò quần chúng.
Tư tưởng mà Nguyễn Trãi đem đến là bước tiếp nối đầy sáng tạo học thuyết Nho giáo và phù hợp thực tiễn lịch sử cùng truyền thống nhân văn cao đẹp của đất nước. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực về vai trò nhân dân đối với Tổ quốc, tạo nên xu hướng trong văn học sau đó.
Ông đề cao các nhân tố làm nên khối đại đoàn kết dân tộc, một quan điểm tiến bộ của thời đại được thể hiện rất rõ ràng xuyên suốt kiệt tác. Theo cùng với đó là tư tưởng nhân nghĩa bắt nguồn từ Nho giáo, hướng con người đến lòng yêu thương và luân thường đạo lý.
Tuy Nguyễn Trãi kế thừa những quan điểm, lẽ sống tích cực từ Nho gia nhưng ông không chỉ đề cao vai trò người quân tử mà còn hướng về nhân dân. Với Ức Trai tiên sinh, việc nhân nghĩa phải đem đến lợi ích và bảo vệ con người, đây được xem là góc nhìn vô cùng mới mẻ so với thời đại phong kiến lúc bấy giờ.
Nguyễn Trãi đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc khi đề cập đến bản chất nhân nghĩa, đó là tình yêu thương, làm yên lòng dân bằng cách xem trọng cuộc sống ấm no, thịnh vượng của quần chúng.
Ông còn nêu ra vai trò mới của lực lượng binh lính là không chỉ bảo vệ quyền lợi vua chúa, quan lại và giai cấp thống trị thời phong kiến mà còn có nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả khác như “trừ bạo”, bình thiên hạ.
Không những có nhận thức sâu sắc với tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về chủ quyền quốc gia dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố khác như văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị và truyền thống lịch sử.
Nếu trước đó Nam quốc sơn hà ra đời được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Đại Việt thì sau đó Nguyễn Trãi đã kế thừa tư tưởng Lý Thường Kiệt, dùng ngòi bút khẳng định chân lý bất di bất dịch về chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Ở giai đoạn trước kia, chủ quyền quốc gia thường thể hiện chủ yếu qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này phát triển đầy đủ hơn, có sự thừa kế tư tưởng của thời Lý, Trần, mang những nét chuyển biến mới lạ.
Ông đã dựa trên nền tảng sẵn có, nâng nó lên để phát triển đầy đủ, toàn diện hơn. Khi quan điểm ấy không chỉ nói riêng đến hai vấn đề cơ bản của một quốc gia có chủ quyền và lãnh thổ mà còn được bổ sung thêm các yếu tố quan trọng khác.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Nguyễn Trãi đề cập việc nước Đại Việt ta “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào phần mở đầu khi nhắc đến sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đó là dân tộc có văn hoá lâu đời, chế độ cai trị cùng tiến trình lịch sử riêng, từng mảnh đất đều được phân chia rõ ràng.
Ngoài vị trí địa lý được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán dân tộc. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hóa cũng là một trong những yếu tố không kém phần quan trọng khi quyết định sự tồn vong của quốc gia.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Đại Việt chứng minh sự vững bền và trường tồn khi dù bị các triều đại phương Bắc xâm chiếm, dân ta vẫn không bị chúng đồng hoá về ngôn ngữ, truyền thống dân tộc, vì thế đất nước mới có chiều sâu văn hoá như hôm nay.
Ông đã nêu rõ việc phân chia lãnh thổ giữa nhà Minh và Đại Việt, do đó phong tục lẫn tập quán hai nước cũng sẽ khác nhau. Qua cách nói đó ngầm khẳng định truyền thống lịch sử lâu đời, bản sắc riêng của dân tộc.
Nhằm nêu bật khí thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi sử dụng cách diễn đạt sóng đôi khi đặt Đại Việt và Trung Hoa ngang hàng nhau trong các câu văn với mục đích đưa ra quan điểm cả hai nước đều có những nét riêng, không thể thay đổi hay xóa bỏ.
Qua đó, càng khẳng định ý thức về độc lập, bộc lộ lòng tự tôn dân tộc sâu sắc và tình yêu đất nước to lớn của tác giả. Đồng thời, ông thể hiện niềm tự hào bằng cách xưng “đế” ngầm nhấn mạnh Đại Việt có chủ quyền, ngang hàng với phương Bắc.
Không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia mà Nguyễn Trãi còn đặt niềm tin mãnh liệt vào nhiều lớp nhân tài kiệt xuất, đó là yếu tố quý giá góp phần quyết định sự vững bền của đất nước.
Đặt trong bối cảnh bấy giờ thì nhận định ấy đã phản ánh tư duy đổi mới, sáng tạo ở bậc đại văn hào Nguyễn Trãi. Chỉ với phần mở đầu bài cáo, người đọc có thể thấy được tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của vị anh hùng dân tộc kiệt xuất.
Ông đưa ra quan điểm kim chỉ nam của hành động nhân nghĩa là đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Qua đó cũng nêu cao vai trò toàn dân nói chung và quân đội triều đình nói riêng trong việc bảo vệ chủ quyền, nền văn hiến gầy dựng từ lâu đời.
Không dừng lại ở đó, để chứng minh rõ ràng cho nền độc lập dân tộc, tác giả tái hiện hào khí thời đại với những chiến thắng vang dội khắp non sông như khúc tráng ca kể về lịch sử hào hùng mà Đại Việt đã trải qua nhằm ngầm cảnh báo đến quân thù.
“Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cớ còn ghi.” – Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi)
Giọng văn trở nên đanh thép hơn khi Nguyễn Trãi đưa ra hàng loạt cái tên cùng dẫn chứng song hành với trình tự thời gian, chỉ ra những thất bại của giặc như bản cáo trạng.
Từ Lưu Cung tới vị tướng nhà Tống Triệu Tiết, có cả Toa Đô, Ô Mã Nhi thời Nguyên đều là những kẻ ham danh, hám lợi, tàn nhẫn đen quân đi xâm lấn nước khác và dẫn đến hậu quả phải nhận vô cùng đau đớn nhưng không so được với tội ác bọn chúng đem lại cho dân ta.
Đi đôi với sự thất bại thê thảm mà bọn giặc phải chuốc lấy là các địa danh nổi tiếng gắn liền chiến công lẫy lừng của quân ta. Một khi chúng đã dám sang xâm lược và làm tổn hại đến lợi ích, đời sống nhân dân, nền độc lập dân tộc thì xứng đáng phải chịu hậu quả khôn lường.
Nguyễn Trãi sử dụng hàng loạt các động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” cho thấy sự căm phẫn vô cùng gay gắt cùng với thái độ kiên quyết, đồng thời cũng là lời cảnh cáo đối với âm mưu xâm lược từ thế lực thù địch.
Tác giả khép lại luận điểm về tư tưởng nhân nghĩa bằng một lời khẳng định chắc nịch “Chứng cớ còn ghi”. Như vậy, thực tế lịch sử đã lưu lại những minh chứng rõ ràng, không thể chối cãi hay phủ nhận sự tồn tại của đất nước qua bao đời.
Đất nước phương Nam bao giờ cũng lấy “nhân nghĩa” làm triết lý sống còn, do đó mới hình thành nền văn hiến lâu đời, đánh đuổi lũ giặc dám hành động phi nghĩa, ngang tàng, đi ngược lại đạo trời.
Từ đó cho thấy, cuộc chiến đánh tan quân xâm lược để giải phóng đất nước chính là hướng đến công lý và lẽ phải. Dựa trên tiền đề chính nghĩa, quan điểm về chủ quyền lãnh thổ ở phần mở đầu, với đoạn hai, bài cáo đã đi sâu hơn, vạch mặt sự man rợ của giặc Minh.
Nguyễn Trãi dùng ngòi bút để tố cáo tội ác man rợ của bọn giặc Minh
Không chỉ là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, Bình Ngô đại cáo còn đóng vai trò như cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác giặc Minh. Dưới ngòi bút tài hoa, sự đau thương và lòng căm phẫn hiện lên theo từng con chữ cùng với những việc dã man mà kẻ thù đã gieo vào đời sống người Việt.
Nguyễn Trãi đã chọn lọc các chi tiết sinh động để làm chứng cứ khốc liệt cho những năm tháng đầy tội lỗi của quân Minh khi đô hộ nước ta, khiến đời sống nhân dân rơi vào bể khổ.
Tác giả đứng trên hai phương diện là góc nhìn dân tộc và lập trường nhân nghĩa để tố cáo tội ác kẻ thù. Trước hết, ông vạch trần âm mưu cướp nước của giặc Minh qua những câu văn.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Khi Hồ Quý Ly giết Trần Thuận Tông nhằm cướp nước, lập nên nhà Hồ, đổi tên quốc gia thành Đại Ngu, nhân dân vô cùng bất mãn. Lợi dụng tình hình rối ren nội bộ, giặc Minh lấy danh nghĩa xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để tiến vào xâm lược.
Ông đã sử dụng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” với mục đích làm rõ luận điệu xảo quyệt, man trá của nhà Minh, khi bọn chúng lấy cớ Hồ Quý Ly lên ngôi không danh chính ngôn thuận để nhận được ủng hộ từ nhân dân Đại Việt nhằm thực hiện mưu hèn kế bẩn mà Minh Thái Tổ luôn ấp ủ.
“Hồ là một người có tài, nhưng vô hạnh. Những đã là vô hạnh, thì không thể gọi là tài được…. Quý Ly, vì vô hạnh đã thoán đoạt ngôi nhà Trần, đã sát hại tông tộc họ Trần, rồi sai sứ sang Minh nói dối là: chính thống nhà Trần đã bị tuyệt diệt. Quý Ly xin lấy tư cách là người cháu ngoại họ Trần xin được tạm quyền trông coi việc nước. Sau đó Quý Ly cắt 49 làng thuộc vùng Cổ Lâu hối lộ cho nhà Minh. Vì tin như vậy, cho nên đã phong cho họ Hồ làm An Nam quốc vương.” – Việt sử yếu (Hoàng Cao Khải)
Kẻ thù bên ngoài luôn bày mưu tính kế nhằm mục đích thôn tính nhà nước Đại Việt, nội bộ triều chính thì lục đục, rối ren, Hồ Quý Ly bán nước cầu vinh âu cũng là giặc. Chính vì vậy, nhân dân trở nên bất bình với triều đại Hồ, điều đó trở thành chất xúc tác để quân Minh tràn vào xâm lược.
Sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man, tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc, khiến cho ai nấy đều mang trong lòng ngọn lửa hận thù. Nguyễn Trãi thể hiện rất dứt khoát, rõ ràng qua cách hành văn nhằm vạch mặt sự ngang tàng không thể tha thứ của giặc.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Thay vì dồn nén nhiều hình ảnh, tư liệu sự kiện vào bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng bút pháp phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc, có sức truyền tải nội dung tổng thể.
Ngọn lửa hung tàn thiêu người chính là chi tiết đắt giá trong bài nhằm chỉ điểm tội ác của giặc. Nó cũng tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà quân hung bạo phương Bắc với lòng tham vọng đã vùi dập cuộc sống con đen lẫn dân đỏ trong suốt hai thập kỷ.
Tác giả vô cùng điêu luyện khi dùng nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, chỉ với hai danh từ đơn giản “dân đen” và “con đỏ”, qua đó Nguyễn Trãi vạch rõ nhiều hành động giết người man rợ, tàn ác của giặc.
Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu đã lột tả tột cùng sự tàn sát man rợ, mất hết nhân tính của giặc Minh vì ngay cả những người dân vô tội, bọn chúng cũng không tha.
Ở mặt khác, chúng còn đẩy người Việt vào “rừng thiêng, nước độc”, nơi đầy rẫy hiểm nguy mà khi đã đi rồi thì rất khó có thể sống sót để trở về, gây nên nỗi đau đầy ám ảnh cho dân ta lúc bấy giờ.
“Từ khi người Minh đô hộ nước ta, chánh sự phiền toái; thuế má nặng nề; quan tham lại nhũng; cấm dân nấu muối trồng rau; bắt dân xuống biển tìm ngọc châu; phá núi lấy vàng; những sản phẩm quý giá như: ngà voi, sừng tê, cánh chim chả, cùng các thứ hương, chúng đều vơ vét hết. Sau lại bắt dân đắp 10 thành trong 10 Quận để đóng quân; chúng lại khéo dụ dỗ các người hào kiệt, đưa vào triều đình Trung Hoa làm quan, cốt là an trí ở nước Tàu vậy. Bởi vậy nhân dân nước ta không trừ một ai, thấy đều sầu thảm oán giận.” – Đại Việt thông sử (Lê Quý Đôn)
Tội ác của giặc đã khiến cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại, đẩy con người vào tình cảnh thê lương, khốn cùng. Không dừng lại ở đó, chúng còn vơ vét tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại cả môi trường sống nước ta.
Những tổn thương, nỗi đau quân Minh đã đè nén lên đất nước Đại Việt dẫu chặt toàn bộ tre rừng cũng không ghi hết, nước biển bao la không thể rửa sạch tội lỗi, mùi máu tanh mà bọn chúng gây ra với dân tộc ta.
Bản cáo trạng như thấm đẫm máu và nước mắt của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã tổng kết với từng câu chữ chất chứa nỗi uất nghẹn, căm hờn. Đó chính là những chứng cứ về tội ác diệt chủng, thể hiện một phần lịch sử tối tăm dân tộc phải gánh chịu.
Như vậy, hàng loạt hình ảnh tả thực ở đoạn hai bài cáo vạch trần sự man rợ của bọn giặc xâm lược và cũng là bằng chứng xác đáng dẫn đến hành động chính nghĩa diệt trừ lũ ngang tàn, bạo ngược mà đội quân Lam Sơn đã gánh vác sứ mệnh to lớn.
Bức tranh bừng sáng về chiến thắng vang dội của nghĩa quân Lam Sơn
Không chỉ dừng lại ở việc vạch ra tội ác, Bình Ngô đại cáo còn tái hiện chân thực quá trình kháng chiến giành lấy thắng lợi của quân và dân ta. Nguyễn Trãi đã vẽ nên bức tranh phác họa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai, mở đầu là hình ảnh ngời sáng về vị chủ tướng Lê Lợi.
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn mang khí phách hiên ngang như lời khẳng định chắc nịch, thể hiện rõ lai lịch của chủ tướng Lê Lợi. Cách tự xưng gần gũi, xuất thân từ vùng núi hoang dã nhưng vì nhân dân, chính nghĩa mà đứng lên.
Vị anh hùng ấy cũng như bao người dân đã nếm trải những nỗi thống khổ nên thấu hiểu hơn ai hết. Tướng quân Lê Lợi mang trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc, thề không đội trời chung với quân thù và luôn trăn trở, ưu tư tìm cách để giải phóng dân tộc.
Mỗi câu văn ngập tràn sự phẫn uất, từ thời các anh hùng như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản đã từng “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, cả Lê Lợi cũng trải qua những cảm giác tương tự.
Ngòi bút của Nguyễn Trãi không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng tài ba mà còn thể hiện khó khăn, gian khổ bởi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu ít được tín nhiệm vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, khó lan toả sức ảnh hưởng.
Trước hết, trong những ngày đầu khởi nghĩa, nhân lực và vật lực quân ta vô cùng thiếu thốn. Giặc thì mạnh, người tài của đất nước còn nhiều hạn chế “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”, tưởng chừng sẽ rơi vào bế tắc.
Thế nhưng, với tất cả ý chí kiên cường, đường lối đấu tranh đúng đắn “đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân ta đã đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Tư tưởng nhân nghĩa được tỏa sáng cũng là kim chỉ nam của đường lối chính trị cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vị anh hùng Lê Lợi đã giương cao ngọn cờ chính nghĩa, mang về chiến thắng vẻ vang cho dân tộc.
Dẫu cuộc khởi nghĩa bắt đầu lúc “quân thù đương mạnh” nên gặp phải nhiều khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn cản được ý chí của người anh hùng áo vải và bước chân nghĩa quân Lam Sơn.
Ông luôn đau đáu nỗi lòng thương dân và khát khao đánh đuổi kẻ thù xâm lược, dù vấp phải muôn trùng khó khăn, con đường tranh đấu vẫn là cánh cửa duy nhất đưa cuộc chiến của nước ta đi đến thắng lợi, bảo vệ cuộc sống hoà bình.
“Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Một vị lãnh đạo sáng suốt biết đối diện với bóng tối để tìm ra con đường ánh sáng, các chiến thuật có tính hiệu quả lâu dài. Đặc biệt là nhìn thấu sức mạnh khối đại đoàn kết của nhân dân, việc vận dụng được điều này giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh.
Từ phẩm chất, tài năng của vị chủ tướng Lê Lợi, Nguyễn Trãi muốn tô đậm hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không nhắc đến tên riêng mà làm nổi bật tầm vóc, khí thế nghĩa quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết.
Dù phạm vi bài cáo còn hạn hẹp nhưng với bằng sự khéo léo tài tình và tài năng văn chương tuyệt đỉnh, Nguyễn Trãi đã tái hiện nhiều góc độ về các trận đánh, giúp độc giả có thể hình dung ra toàn cảnh nơi chiến trường khốc liệt, toả đầy ánh sáng vẻ vang của quân đội Đại Việt.
Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, trải dài khắp mọi miền đất nước, đầu tiên là chiến dịch Bồ Đằng, kéo tới Tây Kinh xứ Thanh, rồi tiến thẳng về Đông Đô với hai cuộc chiến Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công kinh đô Thăng Long.
“Thằng nhãi con Tuyên Đức” được Nguyễn Trãi nhắc đến một cách đầy khinh thường chính là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh chờ cứu viện nhưng nghĩa quân Lam Sơn đã nhanh chóng chặn đứng chúng bằng những trận đánh úp mạnh mẽ.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng, thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khanh cùng kế tự vẫn.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Một đoạn văn ngập tràn hào khí của dân tộc bởi những trận đánh như sấm vang chớp giật, khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng, quân ta ở trong tư thế chủ động tấn công giặc.
Giọng điệu ấy đầy tự hào, tưởng chừng có hoà chung nhịp thở người viết, mạch văn đi nhanh như đang cố đuổi theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân Lam Sơn.
Sự thất bại thảm hại mà kẻ thù nhận lấy được Nguyễn Trãi thường xuyên đề cập bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn cáo lặp lại rất nhiều lần cặp hình ảnh này chính là minh chứng cụ thể cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh.
“Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Quân ta lúc này lực lượng vô cùng đông đảo và có ý chí mạnh mẽ kiên cường, mang tư thế chủ động trên trận mạc. Do đó càng đánh càng hăng, khí thế vươn tới đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước.
Trước đó, trong lịch sử văn học Việt Nam cũng đã từng có bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp đến từ những bậc quân tử luôn sẵn sàng bảo vệ đất nước và khí thế hào hùng, sức mạnh như vũ bão của dân tộc.
“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.” – Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)
Về sau, hào khí này vẫn vẹn nguyên và được tôn vinh một lần nữa bởi ngòi bút Nguyễn Trãi. Ông tô đậm vẻ đẹp dũng mãnh toả sáng từ dân ta bằng hình ảnh thậm xưng phóng đại nhằm gợi tả sức mạnh vĩ đại, áp đảo quân thù của quân đội Đại Việt.
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Bởi thế cuộc khởi nghĩa thắng lợi vẻ vang, quân giặc thua thảm hại và suy sụp về tinh thần, hao hụt ý chí, kẻ thì bỏ mạng, người thì tự vẫn, chuốc lấy thất bại nhục nhã là kết cục tất yếu của bọn chúng vì dám ngang nhiên đi ngược lại với ý trời đã định.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.” – Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt)
Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi và tướng quân Lê Lợi vạch ra từ đầu vẫn luôn soi tỏ. Tuy quân ta chiến thắng nhưng không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại mở đường hiếu sinh, chừa cho chúng một con đường sống.
Ngoài việc tha mạng còn cấp cho bọn chúng thuyền, ngựa để trở về vì vậy thắng lợi của nước ta sáng ngời bởi tinh thần thượng võ, lấp lánh ánh sáng nhân văn. Quân Minh thua nhưng phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi tái hiện rất chân thực và sâu sắc hình chủ tướng Lê Lợi cùng những thử thách mà quân dân ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến.
Đặc biệt là các chiến thắng vang dội của nhân dân trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Những hành động sau khi thành công dẹp loạn quân giặc càng thêm chứng minh tư tưởng chính nghĩa mà quân đội nước ta sáng suốt lựa chọn.
Nghệ thuật chính trong đoạn cáo mang bút pháp đậm chất anh hùng ca được miêu tả qua nhiều hình ảnh có tầm vóc lớn lao, thể hiện nét kỳ vĩ của thiên nhiên, ngôn ngữ đặc sắc với việc sử dụng những động từ liên tiếp để diễn tả sự chuyển biến giữa các trận chiến.
Thêm vào đó, tác giả rất khéo léo khi miêu tả chiến thắng của nước ta qua cách dùng câu văn ngắn bộc lộ sự dồn dập, quyết liệt còn thất bại phía địch thì được diễn tả bằng những đoạn dài thể hiện tính chất khôn cùng, nhiều vô kể.
Dựa trên lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối bài cáo đưa ra lời tuyên bố độc lập quốc gia, Bình Ngô đại cáo là khúc ca Khải Hoàn hướng đến một kỷ nguyên hoà bình với ánh sáng của tự do, khẳng định chủ quyền dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là khúc ca Khải Hoàn mở ra kỷ nguyên hoà bình
Cuối bài cáo, Nguyễn Trãi dõng dạc tuyên bố chiến quả trận chiến và khẳng định thành công của sự nghiệp chính nghĩa mà nghĩa quân Lam Sơn đã đạt được, mở ra một trang sử mới, tiến hành xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ, thịnh vượng.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.” – Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)
Mục đích cuộc chiến chính nghĩa hướng đến là hoà bình, cuộc sống độc lập, ấm no, do đó khi đã đánh đuổi quân thù, Nguyễn Trãi lập tức dùng ngòi bút để thể hiện niềm tự hào và tin tưởng vào tương lai, có sự đồng điệu với khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần.
“Thái bình tu chí lực
Vạn cổ thử giang san” – Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải)
Từ đây, đất nước sẽ bước vào một thời đại đổi mới, độc lập, tự do được trở về, đoạn văn dựa trên quy luật của tự nhiên mà khái quát thành các điều tất yếu trong xã hội. Bởi cuộc sống luôn là “những sự đổi thay” cũng như “bĩ rồi lại thái”, “hối rồi lại minh”.
Nguyễn Trãi muốn khẳng định đất nước ta đã đến kì đại thắng, rồi sau đó sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài. Phần cuối của bài cáo giọng văn dàn trải rất trịnh trọng và cảm xúc hưng phấn đầy sự niềm tin tưởng.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ giàu chất tạo hình mang tính sử thi, Bình Ngô đại cáo đã làm sống dậy trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào không chỉ là chiến công lừng lẫy mà còn ở sức mạnh toàn dân đồng lòng tạo nên thắng lợi vẻ vang.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là kiệt tác xuất sắc của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ mười lăm nói riêng và văn học trung đại nói chung. Không chỉ nêu cao tinh thần chính nghĩa mà còn tô đậm chiến thắng oanh liệt nghĩa quân Lam Sơn đạt được, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi.
Ngoài ra, bút lực của Nguyễn Trãi còn nêu cao sức mạnh đoàn kết dân tộc, mặt khác Bình Ngô đại cáo cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khi đóng vai trò là bản cáo trạng đanh thép về tội ác mà kẻ thù đã gây ra và sự thất bại thảm hại tất yếu bọn chúng phải nhận lấy.
Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên để bảo vệ đất nước và nhân dân, một tư tưởng tiến bộ vượt thời đại được khởi xướng từ bậc anh hùng tài hoa Nguyễn Trãi, điều đó chứng minh Bình Ngô đại cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn sáng ngời trên nền trời độc lập.
Giai Kỳ
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất