Một bữa no – Nỗi ám ảnh về cái đói và sự héo mòn

Hiện thực cuộc sống kham khổ, bất hạnh của người nông dân xưa từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho giới văn nghệ sĩ. Một trong số đó phải kể đến là tác giả Nam Cao với truyện ngắn Một bữa no, ra mắt công chúng lần đầu năm 1943.

Tác phẩm không chỉ tái hiện thực trạng đau đớn của kiếp người trong xã hội Việt Nam xưa mà còn là lời cảnh báo trước sự tha hóa về nhân phẩm khi đối diện với miếng cơm manh áo. Văn sĩ đã lồng ghép vào từng lời văn, câu chữ ráo hoảnh, lạnh lùng kia niềm thương cảm sâu sắc.

Một bữa no
Một bữa no – Nỗi ám ảnh về cái đói và sự héo mòn

Tác giả Nam Cao và những trang văn đau đớn về cuộc đời

Nam Cao có tên khai sinh là Trần Hữu Trí, sinh năm 1915 tại làng Đại Hoàng thuộc tỉnh Hà Nam trong gia đình Công giáo ở nông thôn. Vùng đất nơi chôn nhau cắt rốn ấy đã đi vào tác phẩm Chí Phèo nổi tiếng về sau của ông.

Lớn lên trong một gia đình làm nông đông con, cuộc sống của ông vô cùng khó khăn và túng thiếu đủ bề. Dẫu thế, Nam Cao vẫn kiên trì học tập khi xuống Nam Định để ghi danh vào trường Cửa Bắc rồi sau đó là Thành Trung.

Truyện ngắn đầu tiên đánh dấu sự mở màn sự nghiệp văn học đỉnh cao của nhà văn là Đôi lứa xứng đôi (1941), về sau được độc giả biết đến nhiều hơn với cái tên Chí Phèo. Ông không tô vẽ hay lãng mạn hóa thực tế mà miêu tả nó một cách chân thực, đôi khi có phần trần trụi và khắc nghiệt.

“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than.” – Nam Cao thể hiện quan điểm của mình về nghệ thuật

Trải qua thời gian dài lăn lộn trên lĩnh vực văn chương, Nam Cao đã khẳng định màu sắc cá nhân độc đáo bằng một lối đi riêng, bám sát vào xã hội đương thời dẫu đầy rẫy bất công cùng mục nát. Mục đích sáng tác của ông là thay đổi con người, giúp họ sống ý nghĩa và trọn vẹn hơn.

Với đề tài người nông dân, Nam Cao đã lột tả sự biến chất của họ trước những áp bức, bóc lột từ thực dân phong kiến. Bên cạnh đó, văn sĩ cũng vô cùng thành công khi viết về tầng lớp trí thức cùng tấn bi kịch tinh thần, phải chứng kiến bao hoài bão, lý tưởng sống tốt đẹp ngày trước dần héo mòn.

Nhà văn nổi bật của trào lưu hiện thực phê phán này đã để lại cho đời nhiều đứa con tinh thần có giá trị, tồn tại mãi với thời gian. Các sáng tác tiêu biểu phải kể đến là Đời thừa, Lão Hạc, Đôi mắt, Sống mòn hay Một bữa no, Giăng sáng.

Trong số đó, Một bữa no là truyện ngắn viết về miếng ăn đặc sắc, trình làng văn học vào năm 1941. Khác với cách mà Ngô Tất Tố phơi bày cuộc sống khốn khổ trước cái đói, Nam Cao còn xem nó như thử thách cuối cùng, chi phối nhân tính và lối sống của con người.

Tác phẩm được trích trong Tuyển tập Nam Cao của nhà xuất bản Thời Đại xoay quanh nhân vật chính là bà lão đã sống vất vả cả cuộc đời. Qua đó, văn sĩ không chỉ lên án chế độ thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người ta đến bước đường cùng mà còn bộc lộ sự xót thương, đồng cảm toát ra từ trái tim nồng nàn máu nóng.

Hình ảnh người bà là đại diện cho người nông dân khốn khổ 

Xuất hiện tương đối muộn trong trào lưu văn học phê phán, những sáng tác do Nam Cao chấp bút vẫn phản ánh rõ nét nỗi khổ mà người nông dân ở xã hội bấy giờ phải gánh chịu. Ngay từ đầu truyện ngắn Một bữa no, văn sĩ đã vạch rõ tình cảnh đáng thương của bà lão.

“Chồng bà chết từ khi nó mới lọt lòng ra. Bà thắt lưng buộc bụng, nuôi nó từ tấm tấm, tí tí giở đi. Cũng mong để khi mình già, tuổi yếu mà nhờ. Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ ra nó chết. Công bà thành công toi.” – Một bữa no

Nhân vật chính trong câu chuyện đau đớn ấy chẳng có tên, chỉ được nhắc đến với cách gọi “bà lão”. Dù đã sống một đời lam lũ vì chồng con, khi về già vẫn phải cô đơn một mình và chịu cảnh đói khát.

Các nhân vật khác trong nhiều sáng tác viết về người nông dân như Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua nhà hay Một con mèo cũng không sở hữu cái tên cụ thể. Điều này xuất phát từ dụng ý nghệ thuật của Nam Cao, ngụ ý rằng ở thời đại bấy giờ đầy rẫy những phận đời éo le như thế.

Văn sĩ không miêu tả chi tiết về ngoại hình, thế nhưng độc giả vẫn có thể mường tượng dáng vẻ khổ sở của bà lão thông qua những trang văn. Nhân vật tội nghiệp ấy vừa tự thương cho phận mình, lại luôn miệng than thở, trách móc đứa con trai đã ra đi.

Trong trang viết của Nam Cao, cái khổ không chỉ ập đến một lần mà nó luôn chực chờ, bám lấy các mảnh đời cơ cực. Dù đã hơn bảy mươi, bà vẫn phải gồng mình nuôi lớn đứa cháu gái nhỏ do con dâu bỏ lại.

“Thành thử bà đã già ngót bảy mươi, lại còn phải làm còm cọm, làm mà nuôi đứa con gái ấy cho chúng nó. Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trông mong gì?” – Một bữa no

Khi miêu tả cuộc đời bà lão, giọng điệu Nam Cao vừa xót xa lại xen lẫn cả sự châm biếm. Tình cảnh đáng đương là thế nhưng suy cho cùng, phận đời hẩm hiu ấy cũng luôn nghĩ đến miếng ăn của mình.

Rồi đến khi cháu gái lớn hơn, bà lão quyết định để nó làm con nuôi nhằm đổi lấy mười đồng. Thế nhưng bà cụ cũng chẳng hưởng được gì nhiều vì đã dành hết tám phần lo mồ mả cho đứa con ra đi sớm.

Nam Cao đã dựng nên cả một bức tranh nông thôn xơ xác và tiêu điều thông qua cảnh đời của nhân vật. Dù chật vật bươn chải khắp nơi không kể nắng hay mưa thì bà cũng chỉ kiếm được vài xu sống qua ngày.

Nếu lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên trải qua cơn ốm thập tử nhất sinh, tiêu gần hết tiền dành dụm thì nhân vật chính ở Một bữa no cũng gặp phải hoàn cảnh tương tự. Sức khỏe bà kém hẳn từ lần ấy, không thể chống chọi được với cái nắng gió ngoài chợ.

“Năm ngoái đấy, ông ấy còn bắt bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch. Rồi chết thì không chết nhưng bà lại bị mòn thêm rất nhiều sức lực.” – Một bữa no

Vì không làm được những việc nặng nhọc nữa, kiếp người tội nghiệp ấy bất đắc dĩ trở thành người trông trẻ thuê. Trớ trêu thay, nhân vật chính luôn phải đổi chủ liên tục, ai nấy cũng đều ngại tuổi tác đã già yếu của bà.

“Suốt đêm bà thở dài với rên rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người. Như vậy thì chịu làm sao được? Ấy thế là người ta lại phải tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời bà thay đổi đến năm, sáu chủ.” – Một bữa no

Thế rồi nhân vật đáng thương đó bị đẩy đến bước đường cùng, người chủ cuối quyết định cho nghỉ việc kèm theo năm hào hưu trí. Dù vậy, bà vẫn phải ăn và không bao lâu, chút tiền cuối cùng cũng cạn.

Bằng tài năng văn học cùng vốn từ ngữ phong phú, Nam Cao đã diễn tả vô cùng chân thực sự đau đớn, kiệt quệ của bà lão. Chẳng ngày nào là bà không khóc và than trách số phận đối xử bất công với mình.

Dường như văn sĩ đã hóa thân vào nhân vật để cảm nhận sâu sắc sự dày vòi của cơn đói. Ông thương cho cảnh đời trớ trêu, dù tuổi già yếu, vất vả nuôi con cháu mà chẳng được nổi bữa cơm no.

Đây cũng chính là thực trạng chung của người nông dân trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ. Những kẻ thuộc tầng lớp thấp kém ấy bị giày vò bởi cuộc sống khốn khổ, đầy rẫy sự bất công nên chẳng có tâm trí bận tâm đến điều gì, ngoại trừ bữa cơm manh áo.

Tấn bi kịch đáng thương trong tác phẩm Một bữa no

Tuy không khái quát bối cảnh xã hội rộng lớn như Vũ Trọng Phụng nhưng các sáng tác của Nam Cao, trong đó có Một bữa no lại có chiều sâu hiện thực với những chi tiết đắt giá. Vì chẳng chịu nổi cảnh đói nghèo khốn khổ, bà lão quyết định đến nơi nhà giàu đã nhận nuôi cháu gái để chờ ăn chực.

Dường như nỗi sợ cái đói lấn át cả sự mệt nhoài, khiến bà lão vốn tuổi già sức yếu chẳng thể chịu nổi từng cơn nắng gió lại kiên nhẫn vượt chặng đường dài. Bằng tài năng văn học thiên bẩm, Nam Cao đã vận dụng nhiều từ ngữ giàu tính biểu cảm nhằm lột tả tâm trạng nôn nóng này.

“Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghỉ. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng.” – Một bữa no

Thế nhưng trái ngược với sự kỳ vọng của nhân vật chính, bà phó Thụ, tức là chủ nhà nơi đứa cháu ở đã vô cùng khó chịu, có phần miệt thị khi chứng kiến cảnh người nhà đứa con gái được nhận nuôi đợi ngoài đầu ngõ. Từng lời nói nhân vật chua ngoa ấy thốt ra đều thể hiện rõ thái độ bất bình.

“Úi dào ôi! Vẽ cái con chuột chết! Nó phải làm chứ có rỗi đâu mà bà chơi với nó? Nhà tôi không có cơm cho nó ăn để nó cứ nồng nỗng nó chơi. Bà muốn chơi với nó thì đem ngay nó về nhà, tìm cơm cho nó ăn, bà cháu chơi với nhau vài ba tháng cho thật chán đi, rồi hãy bảo nó lên.” – Một bữa no

Dẫu ý thức được sự xuất hiện của mình đã làm chủ nhà bực dọc, bà lão vẫn cố nhẫn nhịn và giả vờ như không biết. Trong hoàn cảnh thiếu thốn này, lòng tự trọng dường như biến mất, chấp nhận cúi đầu vì miếng ăn.

Ngòi bút Nam Cao trở nên vô cùng lạnh lùng và tàn nhẫn khi miêu tả tỉ mỉ cách ăn của nhân vật chính. Dù đôi tay đã già yếu nhưng bà cụ vẫn cố gắng xơi thật nhanh, sợ người khác chiếm hết phần mình.

“Người đói mãi, vớ được một bữa, tất bằng nào cũng chưa thấm tháp. Nhưng người no mãi, người ta có cần ăn nhiều lắm đâu. Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn.” – Một bữa no

Cho đến khi trên mâm chỉ còn lại mình và bà phó Thụ, con người tội nghiệp ấy vẫn thản nhiên ăn, thậm chí còn cạo nồi sồn sột. Giờ phút này đây, chút danh dự cuối cùng đã biến mất, nhân cách cũng theo đó mà lụi tàn.

Bên cạnh việc lột tả dáng vẻ bần cùng, Nam Cao còn chỉ rõ chính miếng ăn đã khiến bà lão đánh mất lòng tự tôn của mình. Ông đau đớn phát hiện ra rằng ở trong cái khổ lâu ngày, con người ta khó mà giữ được tấm lòng thuần khiết vốn có.

Trong hầu hết sáng tác của tác giả, có những sự ra đi đơn thuần về mặt thể xác nhưng cũng không ít lần, nó thể hiện mức độ xuống dốc trầm trọng nơi tâm hồn con người.

Nhân vật chính trong truyện ngắn Một bữa no không phải là ngoại lệ khi đến cuối cùng, bà lão đã trả giá đắt, bằng cả mạng sống quý báu cho buổi ăn chực no nê. Cái chết ấy diễn ra vô cùng đau đớn, dày vò về thể chất lẫn tinh thần.

Ngòi bút Nam Cao rất lạnh lùng và thậm chí có phần dửng dưng khi miêu tả sự ra đi đau đớn của bà lão. Tuy văn sĩ không dành phần lớn dung lượng tác phẩm để khắc họa nhưng từng câu chữ đều gây ấn tượng mạnh, khiến cái chết càng thêm ám ảnh.

“Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả.” – Một bữa no

Sự ra đi của bà lão chẳng những không nhận được niềm cảm thông mà ngược lại, chỉ toàn miệt thị và dè bỉu từ mọi người xung quanh. Nam Cao đã tạo nên một kết cục vô cùng đau đớn với giọng điệu châm biếm sâu cay, phản ánh trần trụi hiện thực cuộc sống khốc liệt.

Cái chết trong Một bữa no không đơn thuần là sự ra đi về mặt thể xác mà còn chứa đựng tầng ý nghĩa sâu sắc hơn. Nó lên án những kẻ bán rẻ phẩm chất tốt đẹp của mình để đổi lấy miếng ăn, chấp nhận đầu hàng trước số phận.

Đây cũng chính là thực trạng cuộc sống của người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ, họ bị dồn ép đến bước đường cùng để rồi méo mó về cả nhân dạng lẫn nhân hình. Với tư cách nghệ sĩ chân chính, Nam Cao đã quan sát và ghi tạc thật kỹ, đưa vào trang viết những vấn đề mang tính thời đại.

Bức tranh nông thôn xơ xác và tàn lụi trong Một bữa no

Nếu như những nhà văn cùng thời, tiêu biểu là Thạch Lam dựng nên khung cảnh làng quê tuy man mác nỗi buồn nhưng đẹp đẽ, lãng mạn thì Nam Cao chọn một hướng đi khác. Ông đã khắc họa một cách chân thực và rõ nét bức tranh nông thôn Việt Nam xơ xác, hiu quạnh trước Cách mạng tháng Tám.

Ở truyện ngắn Một bữa no, các nhân vật từ bà lão hay đứa cháu gái, người con dâu nhẫn tâm lấy chồng mới đều mang trong mình nỗi khổ riêng. Chính hoàn cảnh xã hội khắc nghiệt đã đẩy những số phận khốn khổ ấy vào bước đường bần cùng hóa.

Dù sống suốt đời vì con cái, bà lão không thể có lấy cho mình một bữa cơm no. Thay vào đó, bà phải đánh đổi sức khỏe để mưu sinh ngoài chợ, khi đau ốm cũng chẳng ai kề cạnh trông nom và chăm sóc.

Ngay cả đứa cháu gái của bà cũng chẳng có hoàn cảnh khá khẩm hơn, khi phải rời xa tổ ấm thân yêu để làm con nuôi nhà giàu. Trong trang văn Nam Cao, từ người già cho đến trẻ nhỏ, đều không thể thoát khỏi số phận bi thảm.

Ở xã hội thời ấy, những kiếp người sống mòn để rồi ra đi một cách đau đớn, tức tưởi như bà lão trong tác phẩm không hề ít. Họ vừa chịu sự áp bức, bóc lột từ chế độ thực dân nửa phong kiến lại phải luôn đấu tranh và dằn vặt với lương tâm.

Tấm lòng bao dung của nhà văn và giá trị nhân đạo trong Một bữa no

Xây dựng nên hình tượng người nông dân khốn khổ, vì cuộc sống mà đánh mất đi lòng tự tôn là một sáng tạo mới trong phong cách viết văn của Nam Cao. Thế nhưng, từng câu chữ tưởng như lạnh lùng, ráo hoảnh kia còn thấp thoáng cả trái tim ấm nóng, đau xót khôn nguôi trước nhiều phận đời bất hạnh.

Khi đề cập đến miếng ăn cũng như cái đói trong nhiều đứa con tinh thần của mình, Nam Cao đã cất lên hồi chuông cảnh báo khẩn thiết. Ấy chính là giải phóng tâm hồn con người khỏi những suy nghĩ ích kỷ, xấu xa và giữ lấy lòng tự trọng cao quý.

Dù bà lão trong tác phẩm chấp nhận bán rẻ tôn nghiêm để đổi lấy bữa ăn no thì đến cuối cùng, Nam Cao vẫn không hề buông lời trách móc nhân vật. Suy cho cùng, con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh, vì vậy văn sĩ đã trực tiếp lên án, tố cáo xã hội đương thời.

Đằng sau bức tranh hiện thực kia là thái độ yêu ghét rõ ràng, nhìn nhận một cách toàn diện, thấu đáo. Ông không đứng ở tầng lớp trên để quan sát mà thực sự hòa mình vào bể khổ mênh mông của cuộc đời.

“Sống đã rồi hãy viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.” – Nam Cao khẳng định tầm quan trọng của trải nghiệm đối với người viết

Tác giả đã đặt trọn tấm lòng vào tác phẩm, dệt nên từng câu chữ làm lay động trái tim bao thế hệ công chúng. Bên cạnh phản ánh hiện thực, Một bữa no còn chứa đựng cả giá trị nhân đạo lớn lao, thể hiện tình yêu thương con người vô bờ bến của nhà văn.

Những nét đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Một bữa no

Không chỉ là nhà văn sống hết mình với cuộc đời, luôn đau đáu trước số phận con người mà Nam Cao còn để lại dấu ấn trên tác phẩm bằng nghệ thuật tài hoa. Trong truyện ngắn Một bữa no, từng câu chữ ông viết ra đều mang nặng chiều sâu, khiến độc giả lặng mình suy ngẫm.

Văn sĩ đã kết hợp khéo léo giữa cái bi và hài, trữ tình cũng như triết lý ở chi tiết bữa cơm cuối cùng của bà lão. Giọng điệu tác giả thay đổi linh hoạt, lúc thì châm biếm, khi lại chua chát xen lẫn xót xa.

Không chỉ vậy, “nhà văn của những người nông dân” còn chú ý miêu tả diễn biến phức tạp nơi nội tâm nhân vật. Từ đó, ông phơi trải trên trang viết sự dằn vặt, đấu tranh khi con người phải chọn lựa giữa miếng ăn và nhân phẩm tốt đẹp.

Nam Cao cũng luôn đưa nhân vật vào nhiều tình thế khó khăn, khiến họ phải bộc lộ cảm xúc cùng suy nghĩ của mình. Ông xây dựng câu chuyện dựa trên nỗi ám ảnh về cái đói và sự héo mòn, tàn lụi nơi tâm hồn con người trong xã hội đương thời.

“Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lý, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người.” – Nhà văn Nguyễn Minh Châu bàn luận về nét đặc trưng trong phong cách sáng tác của Nam Cao

Chính vì tái hiện một xã hội đầy rẫy bất hạnh như thế, câu văn do tác giả viết ra cũng đơn giản đến kỳ lạ. Chúng dứt khoát, đứt nối, thậm chí tàn nhẫn và lạnh lùng mỗi khi miêu tả sự xuống cấp trầm trọng của nhân cách.

Một bữa no khép lại với nỗi day dứt khôn nguôi về số phận tầng lớp nông dân trong xã hội cũ. Qua đó, Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh, xin hãy cứu lấy nhân cách con người.

Lên đầu trang