Vợ nhặt là sáng tác của nhà văn Kim Lân, được viết sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Tác phẩm không chỉ khắc họa bức tranh nạn đói khắc nghiệt năm 1945 mà còn là bài ca ca ngợi tình người giữa lúc khốn cùng.
Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, Kim Lân đã thành công giữ chân độc giả cùng khám phá đến cuối thiên truyện. Viết về nạn đói nhưng điều mà nhà văn muốn gửi gắm là sự sống và khát khao hướng đến tương lai tươi sáng.
Nhà văn Kim Lân là cây bút nổi tiếng trên thi đàn văn học Việt Nam
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, ông sinh năm 1920, mất vào mùa thu năm 2007. Quê gốc của nhà văn ở làng Phù Lưu, tỉnh Bắc Ninh, nơi được xem là có truyền thống lâu đời về cách mạng và văn thư.
Xuất thân trong gia đình nghèo khó, ông học hết tiểu học rồi tự bươn chải kiếm sống. Khi tham gia cách mạng, Kim Lân hoạt động năng nổ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật như sáng tác văn học, tham gia đóng phim và diễn kịch.
“Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.” – Giáo sư Hà Minh Đức
Bởi vì am hiểu và gắn bó sâu sắc với lối sống của người nông dân, ông được xem là cây bút độc đáo khi viết về làng quê Bắc Bộ. Kim Lân viết thăng hoa ở thể loại truyện ngắn, có biệt tài trong việc xây dựng tình huống cũng như miêu tả tâm lý nhân vật.
Văn phong ông giản dị nhưng gợi cảm, ngôn ngữ sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Vợ nhặt, Làng (1948), Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962) đều là những tác phẩm tiêu biểu.
Vợ nhặt là kiệt tác của nhà văn tài hoa
Nhà văn Nguyễn Khải từng không tin Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù cũng như Kim Lân là người sáng tác Vợ nhặt, ông cho rằng “Đó không phải là người viết mà là thần viết. Thần mượn tay người để viết nên những trang bất hủ”.
Vợ nhặt được in trong tập truyện Con chó xấu xí xuất bản vào năm 1962. Tiền thân của truyện là một phần trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết sau Cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, do bản thảo bị mất và không có thời gian tiếp tục sáng tác, tác giả dừng viết Xóm ngụ cư.
Sau khi giải phóng miền Bắc, Kim Lân đã dựa trên cốt truyện cũ, chắp bút cho những trang văn còn dang dở thành truyện ngắn Vợ nhặt. Câu chuyện đã đeo đuổi nhà văn trong ngần ấy thời gian, dần thành nỗi trăn trở xuyên suốt, chỉ đợi ngày thăng hoa.
Nhà văn lấy bối cảnh nạn đói khốc liệt năm 1945 để làm nổi bật bản chất tốt đẹp của người nông dân. Trên nền hiện thực tối tăm, “họ vẫn hướng về sự sống, khao khát tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau”.
Tình huống truyện đặc sắc của Vợ nhặt
Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi sự kiện đặc biệt mà ở khoảnh khắc đó, nhân vật bộc lộ tính cách và thể hiện tư tưởng của tác giả. Vì vậy, tình huống càng độc đáo, tác phẩm càng hấp dẫn và thu hút độc giả.
Với Vợ nhặt, Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, cảm động. Trước hết, nhan đề truyện làm độc giả nghĩ ngay đến anh nông dân “nhặt” được vợ. Đó là một chuyện khó tin, bởi vì trong quan niệm truyền thống thì lấy vợ vốn không dễ dàng.
“Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thực là khó khăn.”
Tràng là dân ngụ cư có địa vị thấp, anh làm nghề đẩy xe bò kiếm sống qua ngày. Tràng sở hữu ngoại hình thô kệch, lời ăn tiếng nói bộc lộ tính cách “dở hơi”. Cả trong hoàn cảnh bình thường, anh Tràng vốn đã có nguy cơ không lấy được vợ.
Tuy nhiên, chỉ với một vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc, thị đã theo Tràng về nhà. Chuyện cưới xin vốn là việc trọng đại nhưng Tràng lại “nhặt” vợ, điều này cho thấy thân phận rẻ rúng của người phụ nữ trong nạn đói.
“Tình huống éo le đã được tạo ra bởi sự đối đầu khốc liệt giữa sự sống và cái chết, giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa cái ấm áp của tình người và cái lạnh lẽo thê lương của chết chóc…” – Thạc sĩ Trịnh Thu Tuyết
Giữa bối cảnh nạn đói thê lương, một cuộc hôn nhân kỳ lạ đã gây ra sự ngạc nhiên cho tất cả mọi người. Tình huống truyện trớ trêu nhưng hợp lý đã góp phần ghi dấu ấn trong lòng độc giả.
Trên bờ vực cái chết, vì khao khát sống nên thị không còn lựa chọn khác. Đối với Tràng, việc anh sẵn sàng dang tay chào đón người đàn bà xa lạ cất lên tiếng lòng mong cầu tổ ấm đôi lứa của chàng thanh niên trẻ tuổi.
Sự lựa chọn của cả hai nhân vật đều đến từ niềm tin vào cuộc sống, họ không chỉ sống cho mình mà còn mang lại niềm vui cho đối phương. Giữa giông tố cuộc đời, những người cùng khổ có thể dắt díu nhau đến tương lai tốt đẹp hơn.
Từ đó, nhà văn Kim Lân góp phần phản ánh bức tranh hiện thực làng quê giữa nạn đói khốc liệt. Ông cũng bộc lộ tư tưởng nhân đạo, khẳng định giá trị của niềm hy vọng, sự khát khao hạnh phúc gia đình.
Giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ nhặt
Giá trị hiện thực là hiện thực đời sống được tác giả phản ánh vào trong tác phẩm. Biểu hiện có thể tóm gọn thành hai ý, một là phản ánh tình trạng xã hội trong thời kỳ nhất định, hai là con người đại diện cho giai cấp nào đó.
Vợ nhặt phản ánh thảm cảnh nạn đói năm 1945 và số phận đáng thương của những người đói khát. Từ bối cảnh không gian nạn đói đến những chi tiết xuyên suốt tác phẩm, tất cả đều toát lên sự thống khổ cùng cực của người lao động.
Qua đó, Kim Lân tố cáo bọn thực dân và phát xít đã đẩy nhân dân ta vào bờ vực cái chết. Ngoài ra, tác phẩm còn cho thấy kháng chiến là con đường duy nhất, chỉ cách mạng mới có thể thay đổi cuộc sống người nông dân.
Bối cảnh nạn đói tại xóm ngụ cư
Kim Lân đặc tả hình ảnh và âm thanh để tái hiện khung cảnh thê lương ở xóm ngụ cư. Cảnh vật tối sầm lại vì đói khát và càng xơ xác, heo hút lúc về chiều. “Cái đói đã tràn đến sớm tự lúc nào” là câu văn báo hiệu thần chết đã gõ cửa ngôi làng.
Người chết tràn lan đến nỗi ai còn sống đều chấp nhận nó như một lẽ thường tình. Xác chết nhiều vô số kể, nằm la liệt khắp nơi tạo nên mùi hôi thối ám vào không khí.
“Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.”
Dưới gốc gạo, gốc đa, người đói kiệt sức “lặng lẽ đi lại dật dờ như những bóng ma”. Các gia đình di cư dắt díu nhau đi tìm miếng ăn “nằm ngổn ngang khắp các lều chợ”. Từng trận gió thổi từ cánh đồng vào làm cho cảnh vật thêm thê lương và hoang tàn.
Khi trời sập tối, bức tranh càng ảm đạm bởi hai bên dãy phố tối om, “không nhà nào có ánh đèn, lửa”. Lửa là nguồn cội của sự sống, thắp lên ánh sáng, niềm tin cho con người. Thế nhưng, cả xóm ngụ cư chỉ có cái đói và cái rét, không mang một tí hơi ấm.
Loài quạ là sứ giả thần chết, chúng đậu trên những cành cây, đợi ăn xác chết thối rữa và “gào lên từng hồi thê thiết”. Tiếng kêu não nề như tô đậm sự bất lực của con người trước nạn đói khốc liệt.
Ngày thị theo Tràng về làm vợ, cả hai âm thầm đi trong bóng chiều u ám. Buổi tối hôm đầu tiên trước khi đi ngủ, họ vẫn nghe tiếng khóc thảm thiết của những gia đình mất người thân vì chết đói.
“Đằng này thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ…”
Khi dân tộc ta bị đẩy vào đường cùng, những kẻ tàn ác vẫn không buông tha. Tiếng trống thúc thuế “dồn dập”, “vội vã” bào mòn niềm tin vào sự sống. Đàn quạ bay lên rợp trời như “mây đen” đang bao phủ cuộc sống lầm than của người lao động.
Nạn đói tàn phá ngoại hình và tinh thần người dân xóm ngụ cư
Cái đói tràn đến xóm làm cho người dân nơi đây bị rút dần sinh khí. Trước kia, mỗi chiều đi làm về, Tràng hồn nhiên, vô tư cười hềnh hệch nên mấy đứa trẻ con trong xóm hay chạy ra vui đùa cùng anh.
Thế nhưng vào độ này, Tràng đi từng bước mệt mỏi với vẻ mặt đăm chiêu cùng những suy tính đè nặng lên vai anh nông dân nghèo. Lũ trẻ ngồi ở xó đường “không buồn nhúc nhích”, chúng ủ rũ và không còn ào ra đón anh như trước nữa.
Cái xôn xao mỗi chiều ở xóm ngụ cư nay tan dần vì không đủ miếng ăn, họ kiệt sức trước nạn đói ập đến. Bất cứ ai trong nạn đói đều băn khoăn, lo lắng cho sự sống, bà cụ Tứ cũng không là ngoại lệ.
Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện, được nhà văn miêu tả với tiếng ho húng hắng và “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”. Đó là hình ảnh đầy sinh động, khắc họa ngoại hình người mẹ nghèo khổ, già nua trong dáng vẻ chật vật lo toan cho cuộc sống.
Trong Vợ nhặt, thị là một trong những người dân bị cái đói tàn phá nhân hình rõ rệt. Nhà văn cũng không nhắc đến quê hương hay bất kỳ người thân, họ hàng nào của thị, không đặt cho thị một cái tên cụ thể, thị vô danh cùng với kiếp sống trôi nổi.
“Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.”
Lần đầu gặp Tràng, thị ngồi trơ ra trước cửa nhà kho thóc, nhặt mấy hạt gạo rơi vãi. Lần thứ hai, Tràng dường như không thể nhận ra vì thị tơi tả đi nhiều. Việc thiếu ăn khiến thị trông chỉ còn “da bọc xương”, không khác gì thây ma bên đường.
Những chi tiết miêu tả nét mặt hay phong cách đều gián tiếp liên quan đến sự đói khổ. Nếu như tiếp tục nhịn đói, chẳng mấy chốc thị cũng sẽ trở thành người chết, thậm chí “còng queo nằm chết bên đường”.
Hành động và cách cư xử của thị khi thiếu miếng ăn
Sự đói khát còn hủy hoại giá trị con người, biểu hiện rõ nhất ở người vợ nhặt. Đối mặt với cái chết, tính cách thị cũng biến đổi theo sự tàn tạ của hình hài. Thị trở nên đanh đá, chua ngoa vì Tràng thất hứa.
Vào lần gặp đầu ở kho thóc, Tràng hò một câu cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”. Khi nhận được lời khẳng định chắc nịch, thị nhanh chóng bỏ qua thái độ cong cớn, vội vàng chạy ra đẩy xe cùng.
Thị “liếc mắt cười tít” với Tràng khiến cho anh sướng rơn. Đó là điệu bộ tình tứ nhưng vốn không xuất phát từ sự lẳng lơ hay cố tình quyến rũ Tràng. Với thị, miếng ăn trong câu hò vu vơ của người đàn ông mới thật sự hấp dẫn.
Thị bấu víu câu đùa bâng quơ, để rồi lúc Tràng thất hứa, thị trở nên chao chát, chua ngoa. Lần gặp lại, người đàn bà “chạy sầm sập” với dáng vẻ vội vàng như sợ anh nông dân đi mất, thậm chí “sưng sỉa”, lớn tiếng và trách móc Tràng nói điêu.
“Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.”
Khi Tràng nói sẽ thực hiện lời hứa, anh mời “miếng giầu” thì thị đã gạt phăng đi. Dân tộc Việt Nam vốn trọng lễ nghĩa, “miếng giầu là đầu câu chuyện”, tượng trưng cho lời chào và sự tôn trọng lẫn nhau khi gặp mặt.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, “lời chào cao hơn mâm cỗ” là nét đẹp văn hóa, khuyên con người không nên vì vật chất tầm thường mà đánh mất phẩm chất quý báu. Nó không chỉ là phép lịch sự cơ bản mà hơn hết có thể đánh giá nhân cách con người.
Tuy nhiên, thị không còn quan tâm đến lễ nghi nữa, điều thị cần là miếng ăn lấp đầy bụng. Đó là hiện thực, trên bờ vực cái chết thì người ta không còn câu nệ hình thức. Cái đói che mờ mắt và thị sợ Tràng sẽ đi mất như lần trước.
Vẫn điệu bộ cong cớn chắn trước mặt Tràng, thị nhất định không cho Tràng thất hứa lần nữa. Khi lời hứa được thực hiện, hai con mắt của thị sáng lên với vẻ đon đả, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng trò chuyện gì”.
Hành động nhanh nhảu sà xuống ăn thật và cách ăn không kịp ngừng là hình ảnh đầy thảm hại, chua xót, nó phản ánh sự đói khát lâu ngày từ thị. Nạn đói không chỉ tàn phá ngoại hình mà còn làm cho người ta quên đi ý tứ và phép tắc lễ nghĩa.
“Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”
Sau khi nói đùa một cách sỗ sàng, chính Tràng cũng không ngờ thị đồng ý theo anh về thật. Miếng ăn mà Tràng cho thị phần nào làm người đàn bà ấy tin tưởng vào gã đàn ông xa lạ. Bất chấp sự thận trọng, thị cùng về với Tràng, mong tìm được chốn nương thân và trốn chạy cái đói.
Từ hành động không chủ tâm, người phụ nữ đói khát sẵn sàng làm vợ anh nông dân nghèo. Cưới hỏi vốn là chuyện trọng đại của đời người, nay lại trở nên đơn giản đến khó tin, nạn đói khiến thị không có sự lựa chọn nào khác.
Bữa cơm ngày đói trong Vợ nhặt
Bằng bút pháp tả thực, Kim Lân miêu tả bữa cơm đón nàng dâu trông thật thảm hại. “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”, một câu văn ngắn đủ nói lên sự kham khổ của người lao động trong nạn đói khắc nghiệt.
Đồ ăn thức uống thường được bày biện trên mâm, vậy mà nhà bà cụ Tứ đến cái mâm cũng không có. Bữa cơm đựng trong “mẹt rách” thể hiện sự nghèo đói tơi tả và nhếch nhác. Thực đơn lại vô cùng đơn sơ, chỉ quanh quẩn “niêu cháo lõng bõng”, muối và rau chuối thái rối.
Tính từ “lõng bõng” làm cho độc giả liên tưởng đến cháo loãng, nước nhiều hơn cái. Phần cháo đựng trong cái niêu nhỏ bé lại ít ỏi, mỗi người trong gia đình chỉ ăn “lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”.
Câu chuyện về tương lai tươi sáng vốn vui vẻ bỗng ngừng lại bởi hiện thực phũ phàng. Bữa ăn tồi tàn vốn không thể làm cả gia đình nhà Tràng no bụng. Để cứu nguy cho không khí vui vẻ không bị trùng xuống, bà cụ Tứ lật đật bưng ra nồi chè khoán.
Trong mắt bà cụ Tứ, đây là thức ăn ngon mà bà muốn chiêu đãi các con. Tuy nhiên, món “chè khoán” thực chất là cháo cám “đắng ngắt và nghẹn bứ trong cổ họng”. Bà cụ cố tỏ vẻ đon đả, vui tươi nhưng cũng không thể lấp đi sự tủi thân len lỏi.
Nồi chè khoán thể hiện tình cảnh đói nghèo và thê thảm của người nông dân. Đây vốn là một món ăn không dành cho con người, vậy mà cả khối nhà trong xóm lại chẳng có để ăn.
Bữa cơm ngày đói phản ánh chân thật về sự khốn khổ của người lao động trong nạn đói năm 1945. Không chỉ riêng gia đình bà cụ Tứ, thiếu miếng ăn là thảm cảnh mà cả dân tộc ta đã hứng chịu sau Cách mạng tháng Tám.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt
Tư tưởng nhân đạo được thể hiện xuyên suốt thiên truyện góp phần tạo nên chiều sâu tác phẩm. Cốt lõi của lòng nhân đạo là tình thương, sự đồng cảm mà tác giả dành cho những con người đang đứng trước bờ vực đau khổ.
Giá trị nhân đạo được thể hiện ở chỗ nhà văn khám phá ra vẻ đẹp con người, từ đó ngợi ca, giúp họ tin tưởng và phát huy niềm tin vào chính mình. Đồng thời, tác giả gửi gắm tinh thần lạc quan và gợi mở những con đường tốt đẹp cho tương lai.
Giữa thảm cảnh đói khát, Kim Lân không chỉ phản ánh tội ác của bọn phát xít, thực dân mà ông còn khẳng định và ngợi ca bản chất tốt đẹp của người lao động.
Với tình huống truyện độc đáo và quá trình phát triển tâm lý nhân vật chi tiết, Kim Lân đã thành công thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Mỗi người mang một nét đẹp tâm hồn riêng, họ đã dùng tấm lòng trân trọng thấu hiểu để đến với nhau.
Tràng là người trượng nghĩa sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ
Tràng là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm, chủ thể nhặt vợ một cách hy hữu. Kim Lân đã khắc họa anh nông dân với ngoại hình và tính cách khá chi tiết, gây ấn tượng với độc giả.
Dù cho có gặp hoàn cảnh chật vật, Tràng vẫn sẵn sàng cưu mang thị, lòng nhân ái đã cứu sống một con người đói khổ. Từ tình thương người, anh có những biến đổi trong tâm lý góp phần tô đậm vẻ đẹp chất phác và trưởng thành của người lao động nghèo.
Tràng là dân ngụ cư với kiếp sống tha hương, chật vật đi qua nạn đói, anh gặp thị trong bộ dạng tơi tả liền động lòng thương. Tuy không giàu có hơn ai nhưng Tràng sẵn lòng chia sẻ miếng ăn cho người đàn bà xa lạ.
Tràng vỗ tay vào túi biểu hiện đủ tiền cho thị ăn, góp phần tôn cao sự hào hiệp và phóng khoáng của anh, tấm lòng nhân ái đã cứu thị khỏi bờ vực cái chết. Không phong tình như Chí Phèo ngỏ lời với Thị Nở, anh Tràng chỉ dùng một câu đùa sỗ sàng để dạm hỏi.
“Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe cùng về.”
Trong hoàn cảnh khốn cùng, thị im lặng đồng ý vô cùng nhanh chóng khiến Tràng rất bất ngờ. Lúc đầu, Tràng cũng lo sợ, anh nông dân nghèo còn không chắc bản thân có thể đi qua được nạn đói khốc liệt này.
Nay lại “đèo bòng” thêm miếng ăn, nếu không khéo thì số phận cả hai cũng không khác gì những xác chết ngoài kia. Tuy nhiên, sau cái “tặc lưỡi”, Tràng bất chấp tất cả để rước thị về nhà.
Câu nói “chậc, kệ!” thể hiện quyết định lấy vợ nhanh chóng, rõ ràng Tràng ý thức được hiện thực và anh chấp nhận đối mặt với nó. Thoạt đầu, hành động mang tính bốc đồng song ẩn sau đó là tấm lòng nhân hậu cùng khát khao hạnh phúc gia đình.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét sự kết hợp của Tràng và cô vợ nhặt “là sự kết hợp của hai cái liều, một anh là liều mạng và một ả lại liều thân”.
Thế nhưng, cái liều lĩnh của cả hai mang đầy tính nhân bản và đáng trân trọng, Tràng vì tình thương mà cưu mang thị còn thị với khát vọng sống mãnh liệt mà chấp nhận. Hai thân phận bọt bèo trôi nổi giữa nạn đói vô tình va phải, dìu dắt nhau đi qua cơn bão này.
Khi sắm sửa cho người “vợ nhặt”
Ban đầu, Tràng hồn nhiên, vô tư nhưng khi đã lấy vợ, anh nảy sinh tình cảm rất nhanh. Tình cảm ấy không hẳn là tình cảm đôi lứa, đó là tấm lòng biết yêu thương và chăm lo cho gia đình.
Tràng đưa thị vào hàng cơm đánh một bữa no nê, sau đó anh còn mua cho thị một cái thúng con với vài món đồ lặt vặt. Sự am hiểu văn hóa của Kim Lân tinh tế ở điểm này, chỉ một chi tiết bé nhỏ lại đầy thấm thía và cảm động.
Đối với người phụ nữ nông thôn, nhất là thời bao cấp trở về trước, chiếc thúng con không chỉ là quà cưới mà còn là của hồi môn. Nhất là khi thị đã không có người thân để đưa dâu, thay vì đi tay không, cái thúng trở thành tài sản giúp thị bớt tủi thân và xấu hổ.
Trong khi xóm ngụ cư không một nhà nào có ánh đèn, lửa, anh nông dân nghèo sẵn sàng mua thêm hai hào dầu thắp sáng cho ngày trọng đại. Hành động tưởng chừng như xa xỉ nhưng thể hiện sự tâm lý và khát vọng chính đáng của Tràng.
Hai hào dầu đánh dấu cột mốc quan trọng trong cuộc đời Tràng và thị, nó thể hiện niềm trân trọng của anh đối với người vợ mới. Ánh lửa thắp sáng ngôi nhà cũng tượng trưng cho hình ảnh Tràng tự tay thắp sáng hạnh phúc cả gia đình.
Trên đường dẫn cô “vợ nhặt” về nhà
Trên đường về nhà, Tràng mang vẻ mặt hớn hở khác thường, tủm tỉm cười một mình, trông đầy hạnh phúc và tự hào vì có vợ. Tình cảm đã thổi một làn gió mới đến với cuộc đời Tràng, anh còn tinh ý để tâm đến cảm xúc của thị trên suốt đoạn đường đi.
“Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?”, anh nông dân nghèo không trực tiếp hỏi người vợ mới mà chỉ tự hỏi thầm. Cả hai đến với nhau một cách chóng vánh, Tràng vẫn đang ngượng ngùng nên đành giữ lời nói trong lòng.
Anh ra trước sân đứng ngóng bà cụ Tứ với vẻ bồn chồn, khi thấy bà về thì anh lật đật chạy ra đón. Tràng thưa chuyện khéo léo gọi thị là “nhà tôi”, gợi chuyện họ đến với nhau vì “cái số”, mong mẹ hiểu và chấp nhận chuyện vui của anh.
Cách xưng hô của Tràng đối với người vợ mới đầy quan tâm, tránh làm cho thị cảm thấy tổn thương vì thân phận “vợ nhặt”. Chuyện cưới xin là duyên kiếp như thể mọi chuyện đã được định sẵn, bà cụ Tứ cũng khó lòng ngăn cản.
Tràng thưa chuyện và cư xử đầy tinh tế, khác hẳn với ấn tượng ban đầu về anh nông dân nghèo ngờ nghệch. Quá trình phát triển tâm lý của Tràng thể hiện sự thay đổi và khát khao chủ động đi tìm hạnh phúc từ người lao động khó khăn.
Bữa sáng đầy sinh khí sau ngày cưới
Sau ngày trọng đại, Tràng được tiếp thêm sinh khí và tự nhận thấy bản thân có trách nhiệm trong việc chăm lo tương lai cho cả gia đình. Anh nông dân lâng lâng “êm ái như vừa trong mơ ra”, đan xen với sự ngỡ ngàng vì vẫn chưa tin mình đã có vợ.
Sân nhà ngập tràn nắng hè sáng lóa, Tràng cũng nhận ra sự thay đổi mới mẻ từ quang cảnh xung quanh ngôi nhà. Bà cụ Tứ và người con dâu đã quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng cho mái ấm thay “mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”.
Nước là nguồn cội của sự sống, nay lấp đầy hai cái ang khô tựa như sức sống dần trở lại. Cảnh sinh hoạt vô cùng bình dị lại rất cảm động, sinh khí mới mẻ tràn vào cả ngôi nhà.
Khung cảnh ấy khiến độc giả nhớ lại buổi sáng hôm Chí Phèo tỉnh dậy sau bạo bệnh, hắn lần đầu cảm nhận âm thanh cuộc sống quanh mình. Tiếng chim hót và cả sự ồn ào của những người đàn bà đi chợ sáng, Chí mơ hồ thấy nhớ về nhiều ước mơ ngày trước.
Chí Phèo thèm lương thiện như cách anh Tràng mong muốn về hạnh phúc tương lai, đó là chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Nam Cao lẫn Kim Lân. Nhà văn tin vào bản chất tốt đẹp của người nông dân và tình người đẹp đẽ đã vực dậy cuộc đời họ.
“Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động.”
Với niềm vui từ sự hạnh phúc giản dị, Tràng cảm thấy gắn bó và có trách nhiệm với gia đình nhiều hơn. Một nguồn vui sướng đột ngột tràn ngập trong lòng, anh nông dân nghĩ về tương lai tươi đẹp, cùng vợ sinh con đẻ cái.
Người đàn ông tự nhận bản thân “nên người” hơn, “xăm xăm chạy ra sân” muốn tu sửa cho căn nhà. Hành động quyết liệt mang đến niềm tin, Tràng mang đến hy vọng trở thành trụ cột vững chắc cho gia đình.
Bà cụ Tứ giàu lòng yêu thương
Xuất thân từ một gia đình nghèo khó, trưởng thành và già đi cùng với những ngày tháng “cực khổ dài dằng dặc”, cụ Tứ lại là người giàu lòng yêu thương, ấm áp. Đối mặt với việc Tràng dẫn một người vợ nhặt về nhà, bà cụ chỉ hoang mang một chút rồi bình tĩnh tiếp nhận.
“Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn.”
Trong những giây phút ngạc nhiên, ngơ ngác, cụ Tứ chưa từng buông lời mắng mỏ, chỉ trích Tràng. Bà “quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu” rồi chờ Tràng giải thích cho nghe toàn bộ câu chuyện.
Chỉ với câu nói ngắn gọn của Tràng, cụ Tứ đã hiểu vấn đề, bà “cúi đầu nín lặng” một cách “vừa ai oán vừa xót thương”. Người mẹ nghèo khổ không buồn bã, ấm ức vì con trai “lấy bừa” một cô gái mà chưa hỏi qua ý kiến của mình.
Thay vào đó, bà đau lòng thương cho số kiếp Tràng, thị và tự trách bản thân vì đã không thể dựng vợ gả chồng cho con lúc nhà ăn nên làm ra. Giữa nạn đói trập trùng xác chết, cụ Tứ còn không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”.
Những chi tiết đó cho thấy cụ Tứ là người mẹ hiền lành, luôn sống vì con, bất lực trước sự nghèo khổ nhưng tấm lòng lại giàu tình thương như biển cả. Nhìn thị, bà không chê trách mà chỉ nghĩ rằng người phụ nữ này đã đến bước đường cùng mới chịu lấy Tràng.
Nếu qua khỏi giai đoạn này, Tràng cũng yên bề gia thất, không phải lo lắng về chuyện thành gia lập thất. Điều này thể hiện lối suy nghĩ lạc quan của cụ Tứ, tuy lo ngại nhưng bà luôn hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn.
“- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.”
Bộc bạch với “nàng dâu mới”, bà thẳng thắn nói về hoàn cảnh gia đình và đề cập đến tương lai tươi sáng. Triết lý “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” tô đậm tư duy yêu đời, có niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của cụ Tứ.
Đồng thời, bà cũng khéo léo khuyên nhủ hai vợ chồng trẻ nỗ lực làm ăn. Từ đó, cả hai mới có cơ hội đổi đời, gia đình ngày một khấm khá hơn. Mặc dù đã lớn tuổi và dành phần lớn cuộc đời để đấu tranh với sự nghèo đói, cụ Tứ chưa bao giờ đánh mất ý chí, sự tích cực.
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, cụ Tứ đã xem thị “là dâu là con trong nhà” và bắt đầu nói chuyện bằng giọng thân mật với thị như đã gặp từ lâu. Trong bữa cơm ngày đói, bà cũng niềm nở mang ra nồi chè khoán, động viên con dâu bằng nụ cười đon đả.
Người vợ nhặt với bản chất tốt đẹp bị vùi lấp
Trong Vợ nhặt, thị là nhân vật duy nhất không được đặt tên và cũng không ai biết xuất thân của thị. Người đàn bà xuất hiện với vẻ ngoài xốc xếch, thảm hại vì bị cái đói hành hạ, giày vò.
Trái với định kiến về phụ nữ, thị chua ngoa và mạnh dạn hơn hẳn so với hình ảnh phổ biến của người con gái truyền thống Việt Nam. Chỉ sau bốn bát bánh đúc, thị đã chịu theo chân Tràng về nhà, đồng ý làm người vợ nhặt của Tràng.
Điều này không có nghĩa là thị dễ dãi hay toan tính, thị chỉ là nạn nhân của nạn đói, vì sự nghèo khổ mà đánh mất nét duyên dáng, ngọt ngào. Ẩn sau vẻ ngoài ấy, thị là người hiền hoà, dịu dàng, biết vun vén cho gia đình và hiếu thảo với bà cụ Tứ.
Khi vừa mới về nhà Tràng, thị “đã lẳng lặng đi vào trong bếp”, chuẩn bị bữa ăn cho tổ ấm. Lúc này, thị mới bộc lộ bản chất “hiền hậu đúng mực”, chẳng còn “vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Ngoài ra, thị cũng là người lạc quan, có ý chí, thị không phản bác lời dặn dò của bà cụ Tứ mà chỉ lặng thầm lắng nghe. Rõ ràng, thị không hề xấu tính, chanh chua mà là người khéo léo, lanh lợi với tấm lòng vì chồng, vì gia đình.
Hình ảnh lá cờ Việt Minh hay lối thoát duy nhất giữa nạn đói
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng vừa là hình ảnh chỉ ra hiện thực tất yếu, vừa trở thành giá trị nhân đạo của tác phẩm. Trong lúc bà cụ Tứ còn lo sợ vì tiếng trống thúc thuế, thị đã nhắc đến đoàn người phá kho thóc ở Thái Nguyên và Bắc Giang.
Trong trí nhớ của Tràng, họ là Việt Minh “ầm ầm kéo nhau” đi cướp thóc và chia cho dân nghèo. Anh từng gặp qua một lần lúc đi đẩy xe bò nhưng Tràng không hiểu gì, vội lánh đi qua một con đường khác.
Cho đến khi nghe thị nói, Tràng mới vỡ lẽ và cảm thấy “ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ”. Lúc ấy, cách mạng vẫn chưa được lan truyền rộng rãi thế nhưng một điều gì đó đã nhen nhóm trong lòng của anh.
“Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”
Niềm tin dù mơ hồ nhưng đã le lói chỉ ra lối thoát tất yếu của nhân dân, cách mạng là con đường có thể cứu lấy chính họ. Lá cờ đỏ dẫn đầu đoàn người đói như một sự liên kết chặt chẽ, ám ảnh tâm trí Tràng và dự báo về tương lai bước chân theo cách mạng của anh.
Vợ nhặt là bài ca nhiều cung bậc về khát vọng sống
Ra đời cách đây khoảng năm thập kỷ, Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về nạn đói 1945. Bằng ngòi bút tài hoa, Kim Lân đã thành công xây dựng bối cảnh nạn đói thê thảm, sự thiện lương cùng khát vọng sống, yêu thương của người dân nghèo vào thời điểm này.
Những tình huống nghịch lý, éo le trong Vợ nhặt đã xuất hiện để tô đậm hoàn cảnh khổ cực cũng như bản chất tốt đẹp của nhân vật Tràng và thị. Đồng thời, Kim Lân cũng tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, khẳng định cách mạng là lối thoát duy nhất.
Ngôn từ Kim Lân giản dị, súc tích mà đầy cảm xúc, mang lại cho độc giả những ấn tượng khó phai. Chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi vào thời kỳ ấy, tâm trí nhà văn luôn bị ám ảnh bởi dịch đói.
Trong một cuộc phỏng vấn, Kim Lân từng chia sẻ về sự khác biệt giữa Vợ nhặt với các tác phẩm về chủ đề nạn đói. Ông nhấn mạnh tình người, niềm tin vào tương lai tươi sáng của Tràng, bà cụ Tứ, thị thay vì tập trung vào khía cạnh tăm tối, bất lực.
“Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy vọng vào tương lai.”
Tư tưởng mà Kim Lân muốn truyền đạt đến độc giả đã trở thành một thông điệp quý báu, có thể ứng dụng trong mọi thời điểm. Mô tả nghịch cảnh để làm nổi bật tình người, sự hy vọng, đó chính là nét đẹp đặc biệt của văn chương nói chung và của Vợ nhặt nói riêng.
Mai Hy
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất