Cuộc trường kì kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta đã để lại dấu ấn sâu sắc trong nền thơ văn Việt Nam. Cùng với các nhà văn cùng thời, Quang Dũng đã dùng ngòi bút riêng biệt của mình để khắc họa một thời đại đau thương nhưng huy hoàng của lịch sử dân tộc qua các bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây và Đôi bờ.
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ
Nhà thơ Quang Dũng sinh năm 1921 và mất năm 1988. Tên khai sinh của ông là Bùi Đình Dậu nhưng đến khi đi học, do thiếu tuổi nên ông đổi giấy tờ cho người anh con nhà bác là Bùi Đình Diệm. Sau này, khi bắt đầu sự nghiệp sáng tác nghệ thuật, nhà thơ đã lấy tên con trai cả của mình là Quang Dũng làm bút danh.
Nhà thơ xuất thân trong một gia đình nhà nho, có cha là cụ Tú Bùi Đình Khuê. Ông học đến bậc trung học tại trường Thăng Long. Đây là tổ chức của những trí thức tiến bộ, có lòng yêu nước bao gồm những tên tuổi lớn như Hoàng Minh Giáp, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai, Nguyễn Lân, Bùi Kỷ, Xuân Diệu, Huy Thông và Vũ Đình Liên.
Được học tập trong môi trường tiến bộ và ảnh hưởng tích cực từ những con người sống giàu lý tưởng như thế nên sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông đã gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam rồi trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu.
Năm 1947, Quang Dũng được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khóa học, ông gia nhập trung đoàn Tây Tiến mới được thành lập với nhiệm vụ cùng bộ đội Lào để bảo vệ biên giới và đánh tiêu hao lực lượng quân Pháp. Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt.
Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng Tiểu ban Tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III.
Có thể nói, quãng đời lính gian khổ nhưng huy hoàng đã để lại trong Quang Dũng nhiều ấn tượng sâu đậm. Những tháng ngày với trung đoàn Tây Tiến đã tạo nên nguồn cảm hứng lớn để nhà thơ sáng tạo những bài thơ hay bậc nhất cho thời đại thơ ca kháng chiến chống Pháp cứu quốc.
Quang Dũng đến với Tây Tiến như một cái duyên ngẫu nhiên là vậy, thế nhưng cái hồn sống động của đoàn binh này đã thông qua các bài thơ của ông mà còn lại đến ngày hôm nay. Đọc thơ Quang Dũng, ta cảm nhận được tất cả sự son trẻ, trong trắng, chân thành của thế hệ thanh niên sống trong một thời đại đau thương nhưng huy hoàng, bất hạnh nhưng chan chứa tình người.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, bên cạnh tư cách là một nhà thơ, ông còn viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Ông từng tham gia triển lãm tranh sơn dầu cùng các họa sĩ nổi danh khác và sáng tác bài hát Ba Vì, ca khúc nổi tiếng được trình bày nhiều lần trong khu kháng chiến.
Đời sống tinh thần phong phú ấy đã khiến cho các tác phẩm thơ của Quang Dũng có được sự hòa quyện đầy lãng mạn giữa chất thơ, chất nhạc và chất họa, phong cách thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa.
Người ta hay nhắc đến chủ nghĩa xê dịch kiểu Nguyễn Tuân ở ông. Nhà thơ không chịu được cuộc sống quẩn quanh, tù túng mà thích ngao du sơn thủy như những hiệp sĩ và trượng phu xưa. Điều đó khiến cho hồn thơ của ông rộng mở với những cảnh thiên nhiên choáng ngợp và những bóng hình giai nhân đầy cuốn hút.
Dù mang trong mình cốt cách tài tử, hào hoa là thế nhưng nhà thơ vẫn chưa lúc nào quên trách nhiệm đối với đất nước trong giai đoạn sôi sục ý chí chiến đấu của lịch sử dân tộc. Điều sâu sắc nhất ở ông là lòng thương người, tình quê hương và tinh thần sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh mà thế hệ thanh niên lúc bây giờ ai cũng mang theo.
Là một nhà thơ chân chính, Quang Dũng luôn tỉ mỉ trong từng con chữ của mình. Điển hình như việc thay đổi tựa đề từ Nhớ Tây Tiến thành Tây Tiến mà nhà thơ đã phải trăn trở, suy ngẫm và xem xét bài thơ biết bao ngày mới quyết định bỏ đi từ “nhớ”. Vì chỉ Tây Tiến thôi đã đủ bao hàm biết bao kỉ niệm về mảnh đất, con người và tinh tế bộc lộ cả nỗi nhớ thương tha thiết.
Nhà thơ trân trọng con chữ, coi trọng sứ mệnh cao quý của nghệ thuật văn chương nên rất mẫn cảm với hạng nhà giàu muốn đánh đổi tác phẩm văn chương bằng tiền bạc. Khi nhận được thư của một đại gia mời mình đến tận nhà sáng tác thơ và ngỏ ý sẽ hậu đãi nếu viếng thăm, Quang Dũng không ngại từ chối và chua chát cảm thán “Văn chương chữ nghĩa rẻ rúng đến thế ư?”
Phong cách thơ khác lạ so với âm hưởng văn học kháng chiến cùng thời
Cách mạng tháng Tám mở ra trên đất nước ta một thời kì lịch sử, thời kì độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự kiện ấy, một nền văn học mới đã ra đời, đó là nền văn học phục vụ cách mạng, cỗ vũ chiến đấu và hướng về đại chúng đồng thời mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn sâu sắc.
Nếu như trước đó, các tác phẩm Thơ mới chủ yếu viết về nỗi buồn cá nhân của một thế hệ cô đơn, loay hoay đi tìm lẽ sống và không biết ngày mai ra sao thì từ ngày Cách mạng về, văn học dưới sự soi sáng của lí tưởng Đảng đã chuyển từ những nốt trầm sang bản hòa ca tràn đầy niềm vui ra trận và nhiệt huyết chiến đấu.
Văn học thời đại bấy giờ làm nhiệm vụ cao cả là vực dậy tinh thần người chiến sĩ và mang đến động lực chiến đấu cho những người lính trên những chặng đường hành quân gian khổ. Ấy vậy mà, giữa bản hòa ca đầy tươi sáng, lạc quan hướng về cuộc chiến của dân tộc ấy, ta bắt gặp một nốt lặng từ nhà thơ Quang Dũng.
Thơ ông nói nhiều đến sự hi sinh, nỗi buồn và niềm nhung nhớ thầm kín mà nền văn học cách mạng rất kiêng kỵ, trong đó bài thơ Tây Tiến là một ví dụ điển hình. Bài thơ được lưu truyền rộng rãi, nhất là trong bộ đội thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
” Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”– Tây Tiến
Thế nhưng về sau, trong một thời gian dài, bài thơ ít được nhắc đến vì bị coi là còn rơi rớt chất lãng mạn tiểu tư sản. Phải đến thời kì đổi mới, bài thơ Tây Tiến nói riêng và các tác phẩm của Quang Dũng nói chung mới được khôi phục vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại.
Bạn đọc hôm hay đọc lại những vần thơ Quang Dũng mới thấy nét trầm buồn trong thơ ông không cốt làm nhụt chí người chiến sĩ mà ngược lại nó thể hiện giá trị nhân văn cao cả mà tác phẩm hàm chứa.
“Xa quá rồi em người mỗi ngả
Đôi bờ đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?”– Đôi bở
Quang Dũng không viết về người lính thông qua lăng kính của một người quan sát hay một kẻ xa lạ, chính ông cũng từng là một người chiến sĩ và thể nghiệm sâu sắc những gian khổ đời lính. Thế nên ông đồng cảm với thế giới tâm tư tình cảm vốn rất phong phú của những chàng thanh niên Hà Thành nay phải đối mặt với những khía cạnh bạo tàn của cuộc chiến.
Những tình cảm đó giúp ông nhận thức được nỗi buồn, nỗi nhớ là điều không thể tránh khỏi và rồi nhà thơ cứ tự nhiên và thành thật viết về chúng như một cách bày tỏ tiếng lòng thầm kín của mình.
Trên những chặng đường hành quân gian khổ, nỗi nhớ là phút giây trầm lắng để xoa dịu những thời khắc căng thẳng, mệt mỏi.
“Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?”– Đôi mắt người Sơn Tây
Còn vào những ngày tháng hòa bình, nỗi nhớ trở thành một lời nhắc nhở, một tiếng thì thầm để người chiến sĩ đã từng đi qua một thời trận mạc không lãng quên những ân nghĩa thủy chung trong quá khứ.
“Bến đò Chi Nê ai đi qua
Có nhớ đường đây về chiến khu
Hồng Phú mang tên Phủ Lí
Tàu qua ba chuyến một ngày
Giọng nói miền Nam trên những đường ray
Động cánh chim rừng tiếng còi xe lửa
Nắng đỏ phố cờ rực rỡ
Hoà bình nắng ấm Châu Giang
Hồng Phú mười năm
Nhớ một chặng đường.”– Hồng Phú Châu Giang
Ông viết những điều không ai dám viết, bày tỏ những đoạn tình cảm không ai dám bày tỏ, chính vì lẽ đó mà những vần thơ của Quang Dũng đã cỏ sức ảnh hưởng rất lớn đối với thế hệ người lính trẻ lúc bấy giờ và mang đến cho họ sự bầu bạn sâu sắc.
Sự đối cực âm dương trong thơ Quang Dũng
Là nhà thơ lãng mạn với phong cách phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa, Quang Dũng bị chi phối mạnh mẽ bởi cảm thức về sự đối cực âm dương trong cách tạo dựng hình ảnh thơ. Cảnh vật và con người hiện lên trong sự nối tiếp và đan xen của những mặt đối lập, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa hào hùng vừa hào hoa, mới khốc liệt dữ dội đã lại tình tứ thanh bình.
Đọc thơ Quang Dũng, ta thấy hiện lên trước mắt một thời đại đau thương bị mưa bom bão đạn đọa đày. Chiến tranh mang đến bao mất mát, chia lìa đồng thời để lại sau lưng những yêu thương chưa kịp bày tỏ, những hẹn ước không định ngày gặp lại và cả những ngày tháng chờ đợi mỏi mòn.
“Anh đi đầu tháng tám
Đầu tháng tám năm sau
Qua đò về làng cũ
Còn bóng dáng anh đâu
Một tờ tin báo tử
Sông Đáy nhớ người con
Chuối đôi bờ ủ rũ
Bóng làng thiếu bóng anh
Bến cát càng mông mênh”– Đám cưới qua sông Đáy
Thế nhưng, đồng thời từ vần thơ của ông, ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp cùng sức sống của thiên nhiên và con người lặng lẽ tỏa rạng trong những mặt đối lập. Thiên nhiên qua lăng kính chủ quan của nhà thơ bộc lộ tất cả sự hiểm trở, khắc nghiệt, sẵn sàng tước đoạt mạng sống của con người thế nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng.
Con người trong thơ ông thường trở đi trở lại với hai hình tượng chính là người lính và giai nhân. Nếu như hình ảnh những người chiến sĩ thường hiện lên một cách cụ thể bằng những nét vẽ khỏe khoắn, gan góc và dũng mãnh thì các cô gái lại ẩn mình trong những đường nét đầy trừu tượng với hình ảnh mềm mại hòa lẫn với vẻ đẹp của thiên nhiên và quê hương đất nước.
“Em mải mơ gì dưới nắng êm?
Tóc như suối mực chảy êm đềm…
Hương nhẹ như là hương hoa cau
Tóc em buông suối chảy về đâu?
Thiên thai em mở bừng trong gác
Ðựng hết Trời xanh chứa hết mầu”– Suối tóc
Tất cả những yếu tố ấy đã làm nên sự trọn vẹn cho những vần thơ chấp bút bởi nhà thơ Quang Dũng. Những đối cực mà nhà thơ xây dựng đã khiến các tác phẩm của ông vừa mang tính thời đại sâu sắc vừa chứa đựng men say của thi tứ, sự bay bổng của hình tượng và sức cuốn hút mạnh mẽ trong từng con chữ.
Quang Dũng và những sáng tạo từ ngữ độc đáo
Ông có sở thích xáo trộn những từ ngữ quen thuộc rồi kết hợp chúng lại một cách đầy ngẫu hứng để làm nên những sáng tạo từ mới mẻ và đem đến trải nghiệm chưa từng có cho người thưởng thức thơ. Như nhãn tự “mùa em” trong bài thơ Tây Tiến, hay hình ảnh “suối tóc” trong bài thơ Suối tóc và cả cách gọi nỗi buồn là êm ấm đầy lạ kỳ trong bài thơ Buồn êm ấm.
Những kết hợp độc đáo ấy khiến ngôn ngữ thơ Quang Dũng chạm đến sự giao thoa ngữ nghĩa đầy táo bạo và mang đến những cảm xúc bâng khuâng khó nói thành lời. Ta có thể nghiền ngẫm kỹ hơn nhãn tự “mùa em” của bài thơ Tây Tiến để cảm nhận được cái hay trong việc sáng tạo từ của Quang Dũng.
” Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. ”– Tây Tiến
“Mùa” và “em” khi đứng riêng lẻ đều là những từ có nghĩa riêng biệt thế nhưng khi được Quang Dũng kết hợp lại, từ ngữ bỗng chốc cùng nhau bật lên những liên tưởng mới mẻ.
Điểm độc đáo mà nhãn tự mang lại cho bài thơ đó chính là sự giao thoa ngữ nghĩa giữa “mùa em” và “mùi em”. Cái hay chính là sự hòa nhập ngữ nghĩa ấy đã khiến cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc dưới ngòi bút Quang Dũng trở nên sinh động, linh diệu hơn bao giờ hết.
Vạn vật không chỉ tỏa ra vẻ đẹp tự thân của núi rừng mà còn thấm đẫm cả cái hồn duyên dáng của em, người thiếu nữ miền sơn cước. Nhãn tự “mùa em” còn đặc sắc hơn vì nó mang đến sự liên kết cho toàn mạch thơ.
Chỉ một kết hợp từ độc đáo như mùa em mà ta đã có thể cảm nhận được bao dụng công, dụng tâm của nhà thơ Quang Dũng. Đó chính là lí do vì sao bài thơ Tây Tiến nói riêng và các vần thơ nổi tiếng khác của ông lay động lòng người đến thế.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân Nguyên cũng không tiếc lời khen Tây Tiến của Quang Dũng.
“Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng, một bài thơ được kỷ niệm 60 năm ngày sáng tác (năm 2008), một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”.
Nền văn học Việt Nam như cây đàn muôn điệu mà ở đó mỗi nhà văn với cá tính riêng biệt sẽ tấu lên một giai điệu độc nhất làm nên những thanh âm đa dạng, hài hòa của bản giao hưởng chung. Quang Dũng đã dùng ngòi bút lãng mạn độc đáo của mình để làm rung động trái tim bạn đọc muôn thế hệ và góp phần làm phong phú thêm văn chương dân tộc.
Hạnh Vi
Hanh Vi
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất