Peter Gene Hernandez, người được biết đến với nghệ danh Bruno Mars là một ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất, nhạc công kiêm vũ công người Mỹ.
Trải qua hơn hai thập kỷ hoạt động, anh đã trở thành một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc đại chúng. Bản thân Bruno Mars cũng nhận đề cử Grammy đến 27 lần và chiến thắng mười một lần.
Thời thơ ấu rộn rã âm thanh của Bruno Mars
Bruno Mars sinh năm 1985 và lớn lên trong một gia đình đa sắc tộc, bố của anh mang dòng máu lai Puerto Rico và Do Thái, mẹ là người Phillippines có gốc Tây Ban Nha. Bruno dành phần lớn thời thơ ấu tại quần đảo Hawaii, nơi mà đa số người dân là con lai.
Chính vì thế, anh chưa bao giờ nghĩ về sự phân biệt rạch ròi giữa các chủng tộc. Sau này, Bruno Mars chia sẻ rằng anh đã phải thay đổi suy nghĩ khi chuyển đến Los Angeles để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.
“Mọi người ở Hawaii đều là con lai với làn da rám nắng. Tôi đã quen với điều này, nên khi đến đó tôi đã khá sốc khi gặp các nhân viên hãng đĩa. Họ liên tục nói những điều kiểu như: “Thế thì radio nào sẽ chơi nhạc của anh? Ai sẽ mua album của anh? Người da trắng hay người da đen?”
Sinh trưởng trong một gia đình nghệ thuật nên Bruno Mars đã sớm tiếp xúc với âm nhạc. Anh tập chơi nhiều loại nhạc cụ khác nhau như piano, guitar hay trống bằng cách học theo cha mẹ mình.
Lên bốn tuổi, Bruno Mars bắt đầu biểu diễn với ban nhạc của gia đình, The Love Notes và thường xuyên bắt chước các nghệ sĩ nổi tiếng như Elvis Presley hay Michael Jackson.
Biệt danh “Elvis nhỏ” ra đời để rồi ba năm sau, nó trở thành vai diễn đầu tiên của cậu bé Bruno trong bộ phim hài Honeymoon in Vegas.
Bruno Mars và biệt danh “Elvis nhỏ” trong Honeymoon in Vegas
Đóng cùng nhiều ngôi sao nổi tiếng trên màn ảnh như James Caan, Nicolas Cage và Sarah Jessica Parker, Bruno Mars vẫn giữ được vẻ tự tin dù bản thân chỉ mới bảy tuổi. Phân cảnh của Bruno trong phim vẫn nhận được nhiều ngợi khen của khán giả dù đã trải qua 29 năm ròng.
Thoạt đầu, bố mẹ Bruno Mars lo sợ việc bắt chước này sẽ khiến anh gặp rắc rối nhưng trái lại, nó khiến “Elvis nhỏ” dần trở nên nổi tiếng tại quê nhà. Bruno có cơ hội xuất hiện trên nhiều chương trình lớn như The Arsenio Hall Show năm 1982, Aloha Bowl năm 1990 và thậm chí là được phỏng vấn trên kênh MTV.
Bruno Mars và màn trình diễn tại Aloha Bowl (1990)
Khi Bruno Mars mười hai tuổi, cha mẹ anh ly dị và hoạt động của ban nhạc chấm dứt. Bruno chuyển ra sống cùng cha và anh trai, ba người họ cứ thế lang bạt nay đây mai đó, lúc thì ngủ trên mái nhà, khi thì trong một sở thú nơi cha anh từng làm việc. Sau này, Bruno thường nhắc đến quãng thời gian lúc nhỏ như cảm hứng cho sự nghiệp của mình:
“Sinh ra và lớn lên tại Hawaii đã khiến tôi trở thành tôi của ngày hôm nay. Tôi đã từng diễn rất nhiều show ở đó với band nhạc của bố tôi. Cả gia đình tôi đều biểu diễn, hát hò và chơi nhạc cụ. Tôi hoàn toàn đắm chìm vào âm nhạc.”
Năm 2003, sau khi được một người chị của Bruno gửi bản thu âm thì Mike Lynn, nhân viên hãng đĩa của nhà sản xuất lừng danh Dr. Dre đã liên hệ với anh để gặp mặt. Theo đề nghị của Mike, Bruno Mars chuyển đến Los Angeles để theo đuổi âm nhạc.
Anh quyết định dùng cái tên Bruno hồi nhỏ và thêm họ Mars làm nghệ danh. Sau này, Bruno tiết lộ anh làm vậy để tránh bị định kiến về gốc gác của mình. Họ thật của Bruno là Hernandez, nghe giống như một cái tên Tây Ban Nha nên các nhà sản xuất thường bảo anh làm nhạc theo phong cách Latin, điều mà Bruno không muốn.
Từ viết nhạc cho người khác đến hành trình trở thành ngôi sao
Một năm sau đó, Bruno Mars ký hợp đồng với hãng đĩa chuyên trị nhạc Soul là Motown Records. Tuy nhiên, sau vài tháng hợp tác, Bruno nhận thấy họ không thể làm ra thứ âm nhạc anh muốn nên chưa đầy một năm sau, anh quyết định rời hãng đĩa.
Thời gian này, Bruno Mars bắt đầu trình diễn khắp Los Angeles cùng ban nhạc mới là Sex Panther. Anh cũng hợp tác viết nhạc cùng nhà sản xuất Philip Lawrence và gửi bản ghi âm cho các hãng đĩa nhưng đều bị từ chối.
Đã nản đến mức muốn bỏ cuộc nhưng về sau, một người đã đề nghị mua lại ca khúc Lost của bộ đôi. Ban đầu, Bruno và Philip đều không đồng ý nhưng khi được trả tới 20.000 đô la, họ đã chấp nhận trao đi đứa con tinh thần để lấy kinh phí hoạt động.
Lost – Bài hát chưa bao giờ được ra mắt chính thức của Bruno Mars
Những tháng ngày miệt mài cầm bút của Bruno Mars cuối cùng cũng được đền đáp. Anh trở thành một nhà sản xuất có tiếng và sáng tác nhiều bản hit cho nhiều ca sĩ, ban nhạc.
Bruno là đồng tác giả của ca khúc Get Sexy trình bày bởi Sugarbabes, góp giọng trong album Animal của Far East Movement và sản xuất bản hit Nothing On You cho nam rapper B.o.B.
B.o.B – Nothin’ On You (feat. Bruno Mars)
Suốt sáu năm ròng rã, Bruno chỉ ngày ngày viết nhạc cho nghệ sĩ khác. Bỗng một ngày, Philip Lawrence giới thiệu cho anh trưởng bộ phận tìm kiếm nghệ sĩ của hãng đĩa Atlantic Records, Aaron Bay-Schuck.
Sau khi nghe Bruno hát một vài ca khúc, Bay-Schuck ngay lập tức đề nghị ký hợp đồng với anh. Tuy nhiên, họ quyết định chờ một thời gian vì cho rằng Bruno cần trau dồi thêm kỹ năng âm nhạc nên phải ba năm sau, Bruno Mars mới chính thức là nghệ sĩ của Atlantic Records.
Khi ấy, Atlantic Records đã là một hãng thu âm lớn trên toàn cầu và trực thuộc Warner Brothers Records, về sau đổi tên thành Warner Music Group. Hãng hiện có hoạt động âm nhạc tại Việt Nam khi thành lập Warner Music Vietnam với những nghệ sĩ như Thái Vũ (Vũ) và Chillies.
Năm 2010, Bruno Mars cho ra mắt EP đầu tiên trong sự nghiệp, It’s Better If You Don’t Understand. EP này không thực sự thành công khi chỉ xếp hạng 99 trên BXH Billboard 200 của Mỹ.
Đây là là một đĩa nhạc thuộc thể loại Pop với vỏn vẹn bốn ca khúc là Somewhere in Brooklyn, The Other Side, Count On Me và Talking to the Moon. Trong đó, Count On Me tuy không được chú ý tại thời điểm ra mắt nhưng sau này lại trở thành một ca khúc rất được yêu thích của Bruno.
Bruno Mars – Count on Me (Official Lyric Video)
Sử dụng chất liệu từ thể loại Folk và Tropical, Count On Me là một bản nhạc bắt tai và đơn giản tôn lên chất giọng sáng của Bruno. Bài hát viết về chủ đề tình bạn và hay được so sánh với ca khúc Over the Rainbow của Israel Kamakawiwoʻole vì sự tương đồng trong nội dung.
Chặng đường từ Just the Way You Are đến Doo-Wops & Hooligans của Bruno Mars
Hai tháng sau, Bruno Mars phát hành đĩa đơn Just the Way You Are, một bản ballad với phần điệp khúc khá bắt tai. Bài hát đã càn quét các bảng xếp hạng âm nhạc tại nhiều quốc gia, bao gồm Mỹ, Canada và Úc.
Bruno Mars – Just The Way You Are (Official Music Video)
Đến tháng Mười năm 2010, album phòng thu đầu tay của Bruno là Doo-Wops & Hooligans chính thức ra mắt. Đây là một đĩa nhạc thuộc thể loại Pop, Reggae, Soul và Rock với tổng cộng mười ca khúc với chủ đề tình yêu và tiệc tùng.
Các bài hát trong album này bao gồm Grenade, Just the Way You Are, Our First Time, Runaway Baby, The Lazy Song, Marry You, Talking to the Moon, Liquor Store Blues, Count On Me và The Other Side hợp tác cùng hai rapper CeeLo Green và B.o.B.
Phần nhạc của album lấy cảm hứng từ Michael Jackson và Kanye West, trong khi đó cách hát của Bruno chịu ảnh hưởng bởi Shakira và U2.
Bản hit “tỉ view” Grenade trong album Doo-Wops & Hooligans
Doo-Wops & Hooligans nhận nhiều ý kiến trái chiều từ giới phê bình, đa phần đều cho rằng nó thiếu đi sự nhất quán vì cố gắng làm hài lòng mọi đối tượng người nghe. Phần lời nhạc cũng bị cho là đơn giản đến mức sơ sài và thiếu thu hút.
Ở khía cạnh tích cực, các tờ báo dành lời ngợi khen cho nỗ lực biến hóa bản thân của Bruno. Tờ The New York Times đánh giá cao việc anh đào sâu và thử nghiệm nhiều dòng nhạc khác nhau trong album. Giọng hát chắc khỏe và giàu cảm xúc của Bruno Mars cũng là điểm sáng của đĩa này.
Về mặt thương mại, Doo-Wops & Hooligans đạt được những thành tích khá tốt. Album đứng thứ ba trên BXH Billboard 200 và bán được 55.000 bản trong tuần đầu, các đĩa đơn phát hành từ album đều trở thành những bản hit lớn.
Từ đó, sự nghiệp của Bruno Mars bước sang một trang mới. Anh trở thành ca sĩ mở màn cho chuyến lưu diễn của OneRepublic và Maroon 5, song ca cùng ca sĩ chính của hai ban nhạc là Ryan Tedder và Adam Levine. Bruno cũng khởi động tour diễn của riêng mình và dần có được những người hâm mộ trung thành.
Tại lễ trao giải Grammy năm 2011, Bruno Mars nhận được sáu đề cử, bao gồm các hạng mục chính là Bản thu của năm, Bài hát của năm và chiến thắng hạng mục Trình diễn giọng Pop nam xuất sắc nhất. Album Doowops & Hooligans cũng nhận được đề cử Album của năm trong lễ Grammy năm 2012.
Hành trình từ album phòng thu thứ hai đến 24K Magic
Cùng năm đó, Bruno phát hành album thứ hai, Unorthodox Jukebox. Hai đĩa đơn từ album là Locked out of Heaven và When I Was Your Man nhanh chóng chiếm lĩnh các bảng xếp hạng, giúp Bruno trở thành nghệ sĩ nam có năm đĩa đơn đạt hạng quán quân tại Mỹ nhanh nhất.
Với album này, anh thử nghiệm một cá tính âm nhạc mới gai góc và u ám hơn. Vẫn lấy chủ đề về tình yêu, Bruno của Unorthodox Jukebox là một Bruno vô cùng táo bạo khi lên kế hoạch trả thù cô gái đã cướp tiền và rời bỏ anh trong Natalie nhưng cũng tỏ ra yếu đuối khi hát When I Was Your Man, bày tỏ sự tiếc nuối về một mối tình tan vỡ.
Bruno Mars – When I Was Your Man (Official Music Video)
Chất liệu âm nhạc sử dụng trong album cũng đa dạng hơn. Bên cạnh các thể loại quen thuộc, một số thể loại mới được đưa vào như Disco với Show Me hay R&B với Treasure. Trong khi đó, Money Makes Her Smile lại là một thử nghiệm thú vị với dòng nhạc điện tử.
Các bài hát còn lại trong album đều nằm trong vùng an toàn của Bruno. Moonshine là một bản Pop pha R&B còn Gorilla lại đi theo hướng Soft Rock. Hai ca khúc Young Girls và If I Knew thuộc thể loại Ballad, khoe trọn những thế mạnh trong giọng hát của anh.
Hai năm sau khi phát hành Unorthodox Jukebox, Bruno Mars lần đầu biểu diễn tại Super Bowl halftime show, niềm mơ ước với bất cứ nghệ sĩ đại chúng nào ở Mỹ. Màn trình diễn của anh thu hút gần 120 triệu người xem, cao hơn cả trận đấu chính thức.
Màn trình diễn khuấy đảo sân vận động MetLife của Bruno Mars
Đỉnh cao sự nghiệp đến với anh vào năm 2016 với album phòng thu thứ ba, 24K Magic. Bruno cho biết trong album này, anh muốn tái tạo thứ âm nhạc mà bản thân đã nghe thời thơ ấu.
Các track trong album đều mang âm hưởng của R&B thập niên 90. Versace on the Floor, Straight Up & Down, Too Good To Say Goodbye và Calling All My Lovelies là các bản R&B Ballad, 4K Magic, Chunky và Perm thuộc thể loại Funk. Trong khi đó, sản phẩm kết hợp với nữ rapper Cardi B, Finesse và That’s What I Like lại có thêm yếu tố Hip Hop.
Hình ảnh Bruno Mars trong 24K Magic cũng trẻ trung và thời thượng hơn các album cũ. Xuyên suốt các MV là hình ảnh anh đội mũ lưỡi trai, mặc quần short, đeo dây chuyền vàng và đi giày thể thao, điển hình như MV Versace on the Floor. MV này còn có sự xuất hiện của Zendaya, nữ diễn viên trẻ góp mặt trong nhiều bộ phim đình đám như The Greatest Showman hay Spiderman.
“Tôi cảm thấy vui khi nhảy nhót và cười với ai đó trên sàn nhảy. Đó là thứ mà tôi muốn mang vào album này. Live show, những bữa tiệc, kiểu như vậy.”
Nhờ album này, anh nhận được sáu đề cử tại giải Grammy năm 2018 và thắng cả sáu, bao gồm hạng mục quan trọng là Album của năm. Trước đó, ca khúc All I Ask hợp tác cùng Adele cũng đem về một giải Grammy cho Bruno.
24K Magic cũng thu về những thành tích thương mại “khủng”, album bán được 213.000 bản trong tuần đầu tại Mỹ và tiêu thụ tổng cộng hơn năm triệu đĩa trên toàn cầu.
Thành lập ban nhạc Silk Sonic cùng Anderson .Paak
Sau một khoảng thời gian nghỉ ngơi thì đến tháng Hai năm 2021, Bruno Mars thông báo trở lại đường đua âm nhạc. Lần này, anh tái xuất dưới vai trò là thành viên ban nhạc Silk Sonic cùng với rapper người Mỹ Anderson .Paak.
Một tháng sau đó, bộ đôi phát hành ca khúc Leave the Door Open để mở đường cho album đầu tay của nhóm, An Evening with Silk Sonic. Đây là một ca khúc lấy cảm hứng từ âm nhạc thập niên 60 và 70 của Mỹ với giai điệu du dương, nhẹ nhàng.
Bruno Mars, Anderson .Paak, Silk Sonic – Leave the Door Open
Sau khi ra mắt, bài hát ngay lập tức đạt vị trí quán quân trên BXH Billboard Hot 100 đồng thời thu về gần 24 triệu lượt nghe trên Spotify. Trên nền tảng Youtube, MV chính thức của Leave the Door Open hiện đã thu được hơn hai trăm triệu lượt xem. Thành tích này càng khẳng định vị thế vững chắc trong làng nhạc xứ cờ hoa của Bruno Mars.
Những dấu ấn cộp mác Bruno Mars trong lòng khán giả yêu nhạc
Quãng thời gian tuổi thơ ở Hawaii đã nuôi dưỡng lòng yêu thích âm nhạc và sự tò mò với các dòng nhạc khác nhau của Bruno Mars, anh thường thử nghiệm nhiều phong cách và không muốn bó buộc vào khuôn khổ nào.
Bruno Mars cũng tự mình sáng tác và sản xuất các ca khúc của bản thân. Nói về quá trình viết nhạc, Bruno cho biết cảm hứng thường đến với anh rất bất chợt, có thể trên máy bay hay trước khi đi ngủ. Có bài hát anh viết chỉ trong một ngày nhưng cũng có bài mất đến một năm để hoàn thành.
Các ca khúc của Bruno Mars thường có âm hưởng vui tươi và tích cực với chủ đề xoay quanh tình cảm lãng mạn, tiệc tùng và việc tận hưởng cuộc sống. Một số bản nhạc khác của anh cũng đề cập đến những khía cạnh u ám hơn như nỗi cô đơn hay sự đổ vỡ.
Bruno thường lấy cảm hứng từ âm nhạc của các nghệ sĩ R&B như R. Kelly, Alicia Keys hay Janet Jackson. Anh cũng bày tỏ sự hâm mộ đối với những tên tuổi huyền thoại như The Beatles, Led Zeppelin, Stevie Wonder hay Freddie Mercury.
Ngoài chất nhạc đặc trưng, Bruno Mars còn thường được nhắc đến với phong cách trình diễn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những huyền thoại như Elvis Presley hay Prince.
“Tôi là một fan bự của Elvis thời điểm những năm 50. Khi ấy, Elvis sẽ lên sân khấu và khiến khán giả “khiếp sợ” bởi sự cuồng nhiệt xen lẫn giận dữ của mình. Prince và The Police cũng vậy. Tôi đã quan sát rất kỹ cách họ trình diễn và học hỏi theo.”
Phong cách biểu diễn của Bruno là tổng hòa của những cái tên trên. Anh có năng lượng giống Michael Jackson, có sự “chất chơi” của Prince và có thần thái như James Brown. Các kỹ thuật nhảy như lock ’n’ pop, đánh hông hay moonwalk đều được Bruno nghiên cứu vận dụng.
Các màn trình diễn của Bruno không thể thiếu sự hiện diện của các nhạc công. The Hooligan, ban nhạc theo chân anh từ những ngày đầu trong nghề cũng tham gia biểu diễn vũ đạo trong khi chơi các nhạc cụ như guitar, bass hay piano.
Trên sân khấu, Bruno Mars hoàn toàn hút hồn khán giả, những bước nhảy điêu luyện và đầy tính sáng tạo của anh nhận về những cơn mưa lời khen từ báo chí và giới phê bình. Tạp chí âm nhạc Rolling Stone xếp anh thứ 35 trong danh sách Những nghệ sỹ trình diễn tuyệt vời nhất năm 2013. Trong khi đó, tạp chí Billboard cho rằng anh trình diễn tốt hơn hầu hết các nghệ sĩ bây giờ.
Kẻ cầu toàn của làng nhạc thế giới
Được biết đến là “kẻ cầu toàn” trong giới, Bruno Mars đặt ra những tiêu chuẩn khắt khe cho bản thân trong công việc. Anh liên tục hỏi ý kiến người khác về các sản phẩm của mình và dường như không để tâm đến những lời tán dương.
“Tôi muốn viết ra những bài hát hay hơn. Tôi muốn trình diễn tốt hơn. Tôi muốn sản xuất những MV đẹp hơn. Tôi muốn album sắp tới của tôi sẽ hay hơn album cũ.”
Bruno luôn nỗ lực để cho ra những sản phẩm chỉn chu nhất. Việc thức đến ba giờ sáng trong studio hay thu âm hai mươi bản khác nhau cho cùng một bài hát vì “không khí của bài chưa đúng theo ý muốn” là chuyện thường xuyên xảy ra với anh.
Khi thu âm bản hit đình đám Uptown Funk, Bruno làm việc đến khuya tại studio. Ba giờ sáng, anh lái xe về nhà và tiếp tục ngồi nghe lại các bản thu trước đó cho đến khi thiếp đi.
Hoặc khi hợp tác với “họa mi nước Anh” Adele trong bản ballad All I Ask, Bruno đã liên tục chỉnh sửa lại phần lời cho ca khúc ngay cả khi đang thu âm. Sau này, anh chia sẻ rằng bản thân vô cùng tiếc nuối vì đã không thay chữ “lovers” trong bài bằng một từ khác.
Bruno cover ca khúc All I Ask
Chính sự cầu toàn này đã khiến Bruno Mars nhận được sự tôn trọng rất lớn từ các đồng nghiệp. James Fauntleroy, nhạc sĩ từng làm việc với Bruno trong album 24K Magic đã nhận xét về anh:
“Có những người chỉ là nghệ sĩ giải trí. Nhưng Bruno thì là một nghệ sĩ âm nhạc thực thụ. Anh ấy quan tâm đến từng nhịp điệu và âm thanh trong bài nhạc.”
Suốt gần hai thập kỷ ca hát, Bruno Mars chưa bao giờ đánh mất đi sự nghiêm túc với âm nhạc. Những ca khúc hay, chất giọng đầy nội lực và những bước nhảy điêu luyện sẽ luôn là những điều khán giả nhớ tới khi nhắc về anh.
Thủy Đồng
Bài viết cùng chuyên mục
Bài viết mới nhất