Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là bức tranh tráng lệ với vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Thông qua áng thơ, đọc cảm nhận được niềm vui, sự tự hào của Huy Cận trước đất nước cùng cuộc sống mới.

Với ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên và con người, Huy Cận đã khắc họa hình ảnh đoàn thuyền đánh cá đầy sức mạnh khỏe khoắn, hào hùng, tràn đầy nhiệt huyết.

Huy Cận là thi sĩ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới

Huy Cận (1919 – 2005) được biết đến như nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông đồng thời là đại diện tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới với nhiều tập thơ ấn tượng.

Tác giả Huy Cận đã tìm thấy mục đích và lý tưởng cao cả cho tiếng nói nghệ thuật của bản thân khi đến với Cách mạng. Với vốn văn hóa phong phú, dòng cảm xúc tinh tế, chân thực, Huy Cận được xem là nhà thơ thành công nhất trong phong trào Thơ Mới.

Huy Cận là thi sĩ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới

Phong cách văn học của tác giả có những điểm khác biệt ở trước và sau năm 1945. Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ ông giàu tính triết lí, thấm thía nỗi buồn và tràn ngập cái sầu nhân thế.

Sau Cách mạng 1945, những áng thơ của Huy Cận lại dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bản thi ca yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống mới.

Những tác phẩm tiêu biểu của Huy Cận có thể kể đến là Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963) Hai bàn tay em (1967).

Vài nét về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được viết vào giữa năm 1958 khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.

Niềm vui dạt dào trước cuộc sống mới đang hình thành, thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ quyết định đi tới những miền đất xa xôi của Tổ quốc, từ miền núi, hải đảo, nông trường để sống và viết.

Vài nét về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Huy Cận đã có chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động cùng niềm vui trước cuộc sống mới.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác trong thời gian ấy, in trong tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958). Với chủ đề tiêu biểu là về biển cả, ông đã khắc họa bức tranh về thiên nhiên và con người khỏe khoắn và khoáng đạt

Cảm hứng chủ đạo và tư tưởng của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành xuyên suốt. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, về vẻ đẹp con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hình ảnh khắp bài thơ.

Về kết cấu, thời gian bài thơ là nhịp tuần hoàn vũ trụ, từ lúc hoàng hôn đến bình minh, cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá, từ lúc ra khơi đến khi trở về.

Không gian bài thơ là khoảng không lớn lao, kì vĩ với trời, biển, trăng, sao, sóng, gió, cũng là không gian cảnh lao động của người dân làng chài nơi vùng biển.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá ngư dân vùng biển Hạ Long, tác giả ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước cùng sự giàu có của biển khơi.

“Tập làm chủ, tập làm người xây dựng 

Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên! 

Yêu biết mấy, những con người đi tới

Hai cánh tay như hai cánh bay lên 

Ngực dám đón những phong ba dữ dội 

Chân đạp bùn không sợ các loài sên!” – Mùa thu mới (Tố Hữu)

Như những câu từ trong Mùa thu mới, thi sĩ Huy Cận cũng đồng thời tôn vinh khí thế lao động hăng say, yêu cuộc sống của người lao động mới được giải phóng và bắt đầu làm chủ bản thân, cuộc đời lẫn đất nước.

Bức tranh hài hòa giữa vẻ đẹp thiên nhiên và con người

Bức tranh thiên nhiên cùng con người lao động căng tràn sức sống mới đã được Huy Cận khắc họa qua những thời điểm và không gian khác nhau. Ở mỗi lúc, khung cảnh ấy lại mang một vẻ đẹp riêng.

Bức tranh hài hòa giữa vẻ đẹp thiên nhiên và con người

Theo trình tự thời gian, từ lúc hoàng hôn buông xuống đến lúc bình minh rạng rỡ trên biển, người lao động lại hăng say trong những giây phút lao động, hòa mình với biển cả bao la.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi trong thời điểm hoàng hôn, cũng là lúc sắp kết thúc một ngày, thế nhưng đó lại là khởi đầu của người dân chài nơi đây.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.”

Câu thơ trên có phần vô lý, bởi trên vịnh Hạ Long ở hướng Đông, tác giả không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có cảnh mặt trời mọc.

Điều này có nghĩa, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc ấy, xung quanh con thuyền chỉ toàn là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển. 

Mặt trời xuống biển nhưng dường như không lụi tàn, vụt tắt. Nó tựa hòn lửa, một quả cầu lửa đỏ rực, khổng lồ chìm vào sâu dưới đáy đại dương. Biển cả bao la khi ấy chợt nồng ấm hẳn lên bởi màu đỏ rực của mặt trời.

Phép so sánh mặt trời với hòn lửa đem đến cho bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ và ấm áp nhưng cũng không kém phần sinh động.

Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” đồng thời khiến người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ và biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng. Vũ trụ giờ đây như ngôi nhà khổng lồ, những lượn sóng dài tựa then cài còn màn đêm đang buông xuống hệt cánh cửa. 

Hình ảnh thơ khiến người đọc cảm nhận vũ trụ bao la mà gần gũi với con người, biển cả, hay cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Qua đó, hai câu thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên từ nhà thơ Huy Cận.

Thiên nhiên, vũ trụ là phông nền cho sự xuất hiện của con người. Trên phông nền ấy, vẻ đẹp lao động được Huy Cận tôn vinh một cách khéo léo.

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ toát lên khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động, họ luôn trong trạng thái khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm.

Đoàn thuyền tiếp tục ra khơi, tuần tự và khiến nhịp sống như chưa một lần ngừng nghỉ. Chỉ với từ “lại”, Huy Cận giúp người đọc nhận ra guồng quay công việc của người dân làng chài vẫn miệt mài, ngày nối ngày.

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất phóng đại khi tiếng hát lao động khỏe khoắn tiếp sức cho gió căng cánh buồm. Giai điệu ngân vang ấy làm nổi bật khí thế hồ hởi trong buổi xuất quân chinh phục biển cả.

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Không những vậy, tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong mỏi của người đánh cá, họ mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản và cá tôm.

Tác giả ca ngợi nguồn sinh vật biển phong phú của Việt Nam như “cá bạc”, “cá thu” nhưng cũng đồng thời gợi ra khung cảnh tráng lệ trên dòng nước với “muôn luồng sáng” được tạo ra từ những đoàn cá.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp

Cảm hứng lãng mạn đã giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của đoàn thuyền trên biển trong đêm trăng. Giữa cảnh lao động nhưng vẫn toát lên niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời cùng biển trời quê hương.

Cảnh đoàn thuyền cùng sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp hoành tráng nhưng cũng rất thơ mộng.

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng.”

“Ra đậu dặm xa dò bụng biển

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la nay trở thành một hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Chiếc thuyền hiên ngang giữa biển khơi có gió làm bánh lái, trăng là cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, mây trời và sóng nước.

Những người lao động, chủ nhân con thuyền cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ. Huy Cận đã vẽ nên bức tranh con người hòa nhập với vẻ đẹp rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp

Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm khi ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận và bủa lưới vây giăng.

Đoàn thuyền đánh cá lướt băng băng giữa những cơn sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển tựa hành trình chinh phục thiên nhiên, con người làm việc với tất cả lòng dũng cảm, trí tuệ, hăng say cùng tâm hồn phơi phới.

Bức tranh lao động khỏe khoắn được điểm tô bằng vẻ đẹp bao la từ thiên nhiên. Đôi mắt của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo độc đáo, bất ngờ.

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.”

Thủ pháp liệt kê cùng sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu như “đen hồng”,”vàng chóe” đã giúp nhà thơ Huy Cận tạo nên bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, lung linh huyền ảo. 

Mỗi loài cá là một kiểu dáng và màu sắc riêng khi “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” nhưng đều làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương.

Mỗi khi “Cái đuôi em quẫy” thì trăng như vàng và rực rỡ hơn, biển cả lại sống động hẳn lên. Người xưa thường nói “Thi trung hữu họa”, Đoàn thuyền đánh cá cũng cho thấy bức kí họa hài hòa của thiên nhiên với từng loài cá ở đây.

Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Trong thâm tâm dân chài nơi đây, cá còn là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động và cứ thế len lỏi vào từng câu thơ của Huy Cận.

Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng mà còn bởi âm thanh. Khi nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ như nghe được tiếng sóng vỗ rì rầm.

“Đêm thở: sao lùa nước Hạ long” 

Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào, trầm bổng là nhịp thở trong đêm của đại dương. Thế nhưng, nhà thơ lại viết “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. 

Thật ra, đó là sóng biển đu đưa và va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đôi mắt ngắm nhìn thiên nhiên vũ trụ của Huy Cận đã khiến biển cả sống động hơn bao giờ hết.

Bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm trước vũ trụ bao la, tác giả đã cảm nhận được hơi thở thiên nhiên. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực cho hình ảnh lãng mạn trên.

Với bút pháp lãng mạn cùng trí tưởng tượng phong phú, Huy Cận đã tạo nên bức tranh đẹp đẽ khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui và nhịp nhàng cùng thiên nhiên, vũ trụ.

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

“Gõ thuyền” là công việc của người đánh cá nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người. Người dân chài hát bài ca gọi cá nhằm bày tỏ lòng biết ơn đối với mẹ thiên nhiên.

“Sao mờ”, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới để quay về bờ “kịp trời sáng”. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả chân thực, đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp.

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm khung cảnh và được khắc họa rất độc đáo với thân hình khỏe khoắn cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”.

Màu hồng từ bình minh làm ấm hình ảnh lao động vào buổi ban mai. Huy Cận đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên và con người cùng hòa mình nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

Nổi bật trên khung cảnh thơ mộng của thiên nhiên với nắng hồng “rạng đông” là hình tượng con người mang vẻ đẹp lao động khỏe khoắn sau một ngày dài lênh đênh trên biển.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời

Khổ thơ cuối khép lại với cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trên nền bình minh rực rỡ và tráng lệ.

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Câu thơ đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ “với”. Huy Cận đã đem đến cho Đoàn thuyền đánh cá kết cấu đầu cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối cho cả bài thơ.

Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân vang, nhấn mạnh niềm vui lao động, xây dựng quê hương và đất nước giàu đẹp. Đồng thời, nó cũng khắc họa vẻ đẹp khỏe khoắn xuất phát từ niềm vui của ngư dân.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời

Phép nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” làm toát lên tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người dân làng chài. Đúng như lời bình từ chính tác giả “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.

Nếu ở khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì khổ cuối lại là “mặt trời đội biển”, tức ngày mới bắt đầu với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

Câu thơ kết vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một viễn cảnh tươi sáng, huy hoàng “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu đánh dấu thành quả lao động trải dài, cuộc sống mới căng tràn sinh sôi, nảy nở.

Cái tôi độc đáo của Huy Cận trong Đoàn thuyền đánh cá

Là một nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ Mới vốn làm nên tên tuổi của Hàn Mặc Tử hay Xuân Diệu, với Huy Cận ông đã thổi vào áng thơ mình nổi u uất, bâng khuâng giữa thời đại.

Với thể thơ bảy chữ cùng cách gieo vần linh hoạt, Huy Cận đã tạo nên âm hưởng thơ khỏe khoắn sôi nổi vừa phơi phới, bay bổng vừa ngọt ngào, tha thiết. Song, kết cấu đầu cuối tương ứng thể hiện trọn vẹn hành trình ra khơi và trở về.

Tác giả còn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ liệt kê gợi sự giàu có của biển cả, các hình ảnh ẩn dụ, nghệ thuật nhân hóa gợi không gian sống động, lung linh, kì ảo mà gần gũi, ấm áp.

Bài thơ cũng là khúc hát, khúc ca về lao động và thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Tiếng hát phơi phới, mạnh mẽ ấy được tạo nên bởi âm hưởng, giọng điệu của bài thơ. Các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần đều góp phần làm nên âm hưởng tác phẩm.

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.

Bí Ngô