Nguyễn Đình Chiểu được biết đến như ngôi sao sáng của văn học dân tộc Việt Nam với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, bài văn thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được xem là tác phẩm nghệ thuật bi tráng bởi tính chất vừa thắm thiết, vừa bi ai. Nó mang ý chí chiến đấu vì nghĩa lớn với phẩm chất anh hùng, đức hi sinh quyết tử đã dựng nên một thời đại sóng gió quyết liệt giết giặc, cứu nước.

Cuộc đời nhiều gian truân của Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, ông sinh năm 1822 tại làng Tân Khánh, tỉnh Gia Định, xuất thân trong gia đình nhà nho nên từ nhỏ đã rất hiếu học. 

Nguyễn Đình Chiểu được biết đến như ngôi sao toả sáng trên nền văn học Việt Nam
Nguyễn Đình Chiểu được biết đến như ngôi sao toả sáng trên nền văn học Việt Nam

Vào lúc thời thế loạn lạc, ông đã chuyển đến Huế, khi mười chín tuổi thì quay lại Gia Định học tập. Năm 1846, ông ra Thừa Thiên chuẩn bị thi tú tài nhưng vì nhận được tin mẹ mất nên phải quay về Gia Định chịu tang.

Trải qua những vất vả trên chặng đường di chuyển, đối diện với nỗi đau quá lớn và không ngừng khóc thương mẹ, Nguyễn Đình Chiểu đã bị bệnh rồi mù mắt. Trong thời gian chữa trị ở Quảng Nam, ông được một vị danh y truyền dạy nghề thuốc. 

Sau đó, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định bốc thuốc chữa bệnh cho dân, danh tiếng vang khắp Lục tỉnh Nam Kỳ. Năm 1859, thực dân Pháp tràn vào xâm lược, dù không tham chiến nhưng ông vẫn nhiệt tình tham gia các phong trào yêu nước.

Ông tích cực sáng tác nhiều tác phẩm văn chương phục vụ cho kháng chiến, ngòi bút tinh tế đã góp phần động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam.

Hành trình khẳng định tên tuổi trên nền văn học dân tộc

Nguyễn Đình Chiểu mang cốt cách cao đẹp của một nhà nho sống đạo nghĩa, dù cuộc đời nhiều biến cố nhưng vẫn giữ phẩm chất thanh cao. Ông vừa là nhà thơ, nhà giáo, vừa được biết đến với danh tiếng thầy thuốc và nhà tư tưởng đương thời.

Hành trình khẳng định tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu trên nền văn học
Hành trình khẳng định tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu trên nền văn học

Quan niệm rằng văn chương phải nhất quán, ông đã dùng con chữ để nói về đạo lý, hướng đến chính nghĩa. Vì vậy, mỗi vần thơ đều bộc lộ quan điểm rõ ràng, công bằng và thẳng thắn, điều đó cũng từng được thể hiện qua bài thơ Than đạo.

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.” – Than đạo (Nguyễn Đình Chiểu)

Văn chương của Nguyễn Đình Chiểu được chia làm hai thời kỳ trước và sau khi giặc Pháp xâm lược đất Việt. Giai đoạn đầu, ông viết truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu đều mang tư tưởng nhân nghĩa, truyền bá đạo lý làm người.

Vào thời điểm Pháp đánh chiếm Gia Định, nhà thơ dồn hết bút lực để viết về cuộc sống nhân dân. Các sáng tác của ông đã cắm cột mốc lớn ở thế kỷ mười chín, nêu cao ngọn cờ yêu nước, chiến đấu hy sinh đến cùng cho hạnh phúc của dân tộc.

Các tác phẩm xuất sắc về nội dung tư tưởng lẫn tình cảm và nghệ thuật lần lượt ra đời như Chạy giặc, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong đã lên án chiến tranh, tái hiện thời kỳ đau thương của đất nước cũng như tố cáo những kẻ bán nước cầu vinh.

Với vô vàn thi phẩm, văn phẩm ca ngợi tinh thần nghĩa khí, anh dũng của nhân dân, đây được xem là giai đoạn phát triển và thành công rực rỡ trong sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.

Nét đặc trưng trong thơ Nguyễn Đình Chiểu

Trong thế giới văn chương của nhà thơ, chữ Nôm được dùng phổ biến với ngôn từ biểu đạt vô cùng gần gũi, sáng tác của ông luôn tiếp cận với cuộc sống nhân dân theo phong cách bình dị.

Đặc biệt là trên những áng văn chương mà ông xây dựng, hình tượng nghệ thuật được khắc họa đều lấy chất liệu từ đời sống người dân. Vì thế tác phẩm đã tạo hiệu ứng mạnh mẽ, để lại ấn tượng sâu sắc cho độc giả.

Trong các sáng tác của nhà thơ, chữ Nôm được dùng phổ biến với những hình tượng nghệ thuật bình dị, ngôn từ giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm thu hút người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.

Ông đề cao tư tưởng Nho giáo tuy hà khắc nhưng lại là đạo nghĩa dân tộc gắn với vận mệnh đất nước. Viết lên những tác phẩm chứa đựng ý nghĩa xã hội sâu sắc, nhà thơ đã đi trước người đương thời, khởi đầu cho thời đại văn chương mang quan niệm tiến bộ sau này.

Hình tượng lý tưởng mà ngòi bút ông hướng đến là nhân cách cao đẹp, dám đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa. Do đó, nhà thơ đã xây dựng thành công hình ảnh người nông dân trong nền văn học Việt Nam.

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu luôn gắn bó với nhân dân, nhất là người dân nghèo. Vì thế ông dành sự ưu ái, kính mến đối với họ khiến nhà thơ Xuân Diệu cũng phải thốt lên:

“Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu.” – Xuân Diệu

Trên những trang văn của Nguyễn Đình Chiểu, thấm đẫm trong từng con chữ là tinh thần dân tộc nồng nàn. Sống ở hoàn cảnh nước mất nhà tan, dù đôi mắt không sáng nhưng trái tim ông luôn xót xa, thấu hiểu tình cảnh.

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.” – Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)

Ông phát hiện ra bản chất tốt đẹp, sự lương thiện ẩn sau vẻ nhọc nhằn, lam lũ của họ. Nhà thơ đã gửi gắm niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc và sự tin tưởng vào nhân cách cao đẹp của người lao động nghèo. 

Trước đó, hình ảnh con người bình thường đã từng hiện diện trên nền văn học dân tộc. Đó là người tiều phu thấp thoáng trong bài thơ Qua đèo ngang của Bà Huyện Thanh Quan hay đám đông nhộn nhịp với cuộc sống lao động Lao xao chợ cá làng ngư phủ của Nguyễn Trãi

Tuy nhiên, lần đầu tiên ở lịch sử văn học Việt Nam, con người bình thường ấy đã xuất hiện một cách hào nhoáng trong những trang văn của Nguyễn Đình Chiểu với tư cách là nhân vật trung tâm.

Từ đó, ông tập trung nhào nặn hình ảnh người dân lao động nhỏ bé, bình dị như ông Ngư, ông Quán trong Lục Vân Tiên. Tấm lòng nhân nghĩa, tình yêu nước, thương dân là nội dung chính trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. 

Nhà thơ đã để lại rất nhiều tác phẩm nhưng tiêu biểu là kiệt tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã góp phần làm sáng bừng nền văn học Việt Nam, mang lại sự thành công cho sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu.

Nếu không phải là nhà thơ của nhân dân, không đồng hành, không đồng cảm sâu sắc trước nỗi đau khổ của nhân dân thì sẽ không bao giờ viết được áng văn bi tráng như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Tác phẩm là một vì sao sáng trên nền trời văn học Việt, nhà thơ đã khắc họa một tượng đài bất tử về những người anh hùng Nam Bộ yêu nước, tiên phong trong cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản hùng văn của thời đại

Năm 1858, Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đầu năm 1859, khi chiếm được Gia Định, Pháp mở rộng tấn công các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công.

Đêm rằm tháng mười một, năm Tân Dậu, những người nghĩa sĩ vì căm phẫn giặc ngoại xâm đã tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt một số quân địch và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp.

Tuy nhiên, để làm được điều đó thì khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hy sinh, tạo nên nỗi xúc động lớn trong lòng nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và đọc tại lễ truy điệu những anh hùng đã hy sinh trong trận đánh này.

Tác phẩm viết theo thể loại văn tế, ngày nay còn gọi là điếu văn, một hình thức thường dùng để đọc khi cúng tế người đã mất. Năm 1861, nhà thơ sáng tác bài văn để tế vong hồn các nghĩa quân, trước đây là những người nông dân Cần Giuộc.

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết bởi một Nhà nho mù nhưng giọng điệu lại hào hùng, trở thành bản “hùng văn” của thời đại, bất tử với thời gian vì sở hữu giá trị vượt qua mọi bài tế thông thường. 

Giá trị nội dung được thể hiện qua khí phách, ý chí quật cường và lòng tự hào dân tộc. Chiến tranh, bom đạn đã đem lại mất mát to lớn và người trực tiếp bị tổn thương đau đớn là nhân dân.

Họ đã “nếm mật nằm gai”, gặm nhấm nỗi đau nhưng tinh thần dân tộc vẫn dâng trào trong tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ đất nước. Khi đó, những người con đã ngã xuống vĩnh viễn tại quê cha, đất mẹ và tốp khác lại đứng lên vì màu cờ Tổ quốc.

Bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu có ba mươi liên, sáu mươi vế. được viết theo thể văn biền ngẫu, chia thành bốn phần gồm lung khởi, thích thực, ai vãn và phần kết.

Điểm chung của các bài văn tế là giọng điệu lâm li, bi đát, sử dụng nhiều thán từ và ngôn từ, hình ảnh có giá trị gợi cảm. Qua đó, tác phẩm bày tỏ sự thương tiếc đối với người đã khuất, ca ngợi phẩm hạnh, công đức của người mất.

Đầu tiên, phần lung khởi đã khái quát lại bối cảnh thời đại, khẳng định cái chết bất tử của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tiếp theo, nội dung thích thực sẽ góp phần khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ trong đời thường và khi chiến đấu chống giặc.

Ở đoạn ai vãn, tác giả bày tỏ niềm thương xót và cảm phục đối với những linh hồn nghĩa sĩ. Cuối cùng, phần kết sẽ ca ngợi sự hi sinh góp phần làm nên lịch sử trong hành trình chống giặc, cứu nước của nhân dân.

Đây là văn bản đặc biệt về thể loại, nội dung, ngôn ngữ và hình thức trình bày. Tuy không phải bài nghị luận nhưng dưới góc nhìn lý thuyết, bài tế có giá trị lập luận rất cao.

Đó không chỉ là nỗi xót thương mà còn là sự kính trọng mà tác giả và nhân dân Cần Giuộc dành cho những người “nông dân áo vải”, dám đứng lên vì chính nghĩa, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Bối cảnh của thời đại và sự hy sinh anh dũng của những người dân áo vải

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc ra đời trong tình cảnh “nước mất, nhà tan”. Tuy nhiên, ý chí không lung lay trong câu chữ, ngược lại còn đậm chất bi tráng, thể hiện nỗi bi ai nhưng hùng tráng với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. 

Dù “Vận nước lúc thịnh, lúc suy, song hào kiệt thời nào cũng có”, những người nông dân chất phác đã đứng lên, đi vào chốn xa trường khốc liệt và trở thành nghĩa sĩ Cần Giuộc mang tầm vóc của thời đại.

Bối cảnh của thời đại và sự hy sinh anh dũng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc
Bối cảnh của thời đại và sự hy sinh anh dũng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc

Mở đầu văn tế, hai tiếng “Hỡi ôi!” cất lên nghe thật đau lòng, đó là nỗi cảm thương sâu sắc của Đồ Chiểu đối với những chiến sĩ tử trận và tiếng nấc nghẹn ngào cho nhân dân, đất nước đang rơi vào tính thế lâm nguy.

“Hỡi ơi! 

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.”

Nguyễn Đình Chiểu đã thành công tái hiện vẻ đẹp nông dân trong không khí căng thẳng, sục sôi, đồng thời phác họa sự kiên cường, bất khuất của dân ta thông qua kết cấu đối lập.

Chỉ với mười chữ nhưng nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh toàn diện về tội ác mà  giặc bao trùm lên lý tưởng cao đẹp của nhân dân. Câu thơ thứ hai được tách đôi thành hai vế gãy gọn nhưng lại có thể khái quát cả bối cảnh thời đại bấy giờ. 

“Súng giặc” cùng những vũ khí tối tân, hiện đại đã tạo ra sức tàn phá gây tổn hại nặng nề cho đất nước. Tình thế trở nên lâm nguy, chính hoàn cảnh ấy đã thử thách khối đại đoàn kết dân tộc.

Khi đó, người nông dân quyết đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, họ anh dũng đấu tranh với trái tim quả cảm và lòng yêu nước nồng nàn, không quan tâm đến cái chết, sẵn sàng hy sinh chiến đấu chống kẻ thù. 

Tuy xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo chân chất, ngày ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, quanh năm suốt tháng cày bừa nhưng họ vẫn cống hiến hết mình cho công cuộc giữ nước của dân tộc.

Hình tượng những nghĩa sĩ Cần Giuộc kiên cường

Hình ảnh người nông dân là nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác của thi nhân Việt Nam, đặc biệt thường xuất hiện trong nền văn học trung đại và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện rõ điều đó.

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới” – Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân đối với đất nước nhưng chưa bộc lộ được vẻ đẹp anh dũng trong họ. Đến khi Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời, nét đẹp bình dị mà kiên cường mới được thể hiện một cách rõ ràng.

“Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.”

Những người nghĩa sĩ được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khắc họa vừa mộc mạc, vừa bất khuất. Trước khi Pháp nổ súng tấn công miền Nam, họ vốn là nông dân chất phác, sống cuộc đời bình dị chỉ “cui cút làm ăn”.

Sinh ra và lớn lên sau lũy tre làng, họ làm lụng vất vả vì cuộc sống nghèo khó. Họ gắn liền với con trâu, cái cày cùng bao lo toan về cuộc sống. Điều đó đã thể hiện rõ sự khắc khổ, vất vả của những người nông dân ở thời đại bấy giờ.

Quanh năm suốt tháng bận rộn “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm”, công việc đó đã nuôi sống họ nhiều năm tháng. Còn“tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” là một điều hoàn toàn xa lạ.

Bằng nghệ thuật sử dụng các cặp từ tương phản “chưa quen” với “chỉ biết”, “vốn quen” với “chưa từng”, Nguyễn Đình Chiểu đã nhấn mạnh sự quen thuộc với đồng áng nhưng lạ lẫm trước công việc nhà binh, từ đó tạo sự đối lập của tầm vóc anh hùng trong đoạn sau.

Khi Pháp bắt đầu cuộc tấn công xâm lược, những người nông dân chân lấm tay bùn đã rũ bỏ chiếc áo vải để chiến đấu, giữ từng tất đất, thửa ruộng. Trước đó là  người nghèo khó và lương thiện, do vận mệnh đất nước lâm nguy mà họ đã trở thành chiến sĩ.

“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”

Dù không phải là binh lính “rành nghề” nhưng những người anh hùng vẫn hiên ngang đứng lên chống Pháp. Tất cả hành động của họ đều xuất phát từ sự căm phẫn với tội ác của giặc xâm lược.

Tuy nhiên, Nguyễn Đình Chiểu cũng tinh tế khi đưa ra một nguyên nhân khác ẩn trong ngôn từ mĩ miều “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, biết được giặc bắt đầu tràn vào bờ cõi nước ta từ lâu nhưng vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ vào quân đội.

Tuy nhiên, họ đã thay đổi về mặt nhận thức và tình cảm khi nhận ra “trông tin quan như trời hạn mong mưa”, sự thờ ơ, nhu nhược của triều đình khiến niềm mong mỏi của nhân dân chìm trong vô vọng.

Thế nên, những người nông dân Cần Giuộc nhận thấy được trách nhiệm bản thân với đất nước, họ đã mạnh mẽ đứng lên vì ánh sáng của hòa bình, của nền độc lập dân tộc.

Những đau thương do giặc đem lại khiến nhân dân vô cùng bất bình, chỉ cần nhìn“bòng bong che trắng lốp”, thấy tàu Pháp giăng bạt trắng, chạy trên sông là muốn nhào tới “ăn gan”“cắn cổ”, sự căm phẫn gay gắt này cũng từng xuất hiện trong Hịch tướng sĩ.

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.” – Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)

Xuyên suốt dòng chảy lịch sử, sự mất mát vì chiến tranh cứ liên tục lặp lại, đẩy người dân lành vào tình cảnh éo le, không thể nào đứng yên mà nhìn giặc giày xéo quê hương. 

Bằng cách vận dụng điển tích, điển cố “chém rắn đuổi hươu”, thành ngữ “treo dê bán chó” và hàng loạt từ ngữ Hán Việt, Nguyễn Đình Chiểu đã vạch trần bộ mặt giả dối “khai hóa”, “truyền đạo”, phơi bày dã tâm của thực dân Pháp, đồng thời thể hiện lòng căm thù mà nhân dân dành cho giặc giã.

Đứng lên từ nỗi đau nước mất, nhà tan, gia đình ly tán, sự thờ ơ của quan lại khiến họ đi đến quyết định vùng lên chống lại những kẻ xâm lược tàn ác, hình thành ý thức trách nhiệm với Tổ quốc. 

Người nông dân hiền lành đã trở thành chiến sĩ không màng sống chết, sẵn sàng hi sinh để hoàn thành sứ mệnh, bộc lộ truyền thống yêu nước trong tâm hồn người Việt.

Chiến binh áo vải đã có sự chuyển hóa phi thường trong thái độ và hành động, họ không đợi bị bắt đi lính mà tự nguyện chiến đấu với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” khi không “trốn ngược trốn xuôi” mà dốc sức chiến đấu hết mình vì dân tộc.

Với biện pháp liệt kê, giọng điệu hùng hồn, tác giả đã cho thấy ý chí chiến đấu ngoan cường của người nông dân. Họ sẵn sàng đứng lên đấu tranh, không hèn nhát như một số bộ phận người lính trước đây.

“Một tay thì cắp hoả mai

Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền

Tùng tùng trống đánh ngũ liên

Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.” – Ca dao

Bài ca dao phần nào bộc lộ sự yếu đuối của vài người lính trước kia khi bị bắt ra trận nhưng ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thì khác biệt hoàn toàn bởi tinh thần tự nguyện đấu tranh của nhân dân.

Tượng đài vĩnh cửu về những người hùng áo nâu 

Nguyễn Đình Chiểu đã dùng ngòi bút tài hoa để tô vẽ hình ảnh người chiến sĩ áo nâu ra trận, bằng ngôn từ hùng hồn, hoành tráng góp phần thành công trong việc khắc họa “tượng đài nghệ thuật” của bài văn tế.

“Khá thương thay:

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.”

Hào khí dân tộc cùng tội ác của giặc trực tiếp tác động khiến họ vùng lên đấu tranh bằng cả tấm lòng người con Việt. Khi đó những người nông dân Cần Giuộc đã“Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi).

Họ vốn không xuất thân từ nhà lính, không được tập luyện mà vì tình cảnh đất nước lâm nguy nên mới ra trận. Người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã phải luyện tập binh đao để chuẩn bị cuộc kháng chiến trong hoàn cảnh ngặt nghèo. 

Điều kiện vô cùng thiếu thốn, họ chỉ có “Mười tám ban võ nghệ”, chiến đấu cùng vật dụng thô sơ là công cụ lao động hằng ngày của nhà nông như “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”.

Tuy nhiên, những “cái không” ấy chẳng làm cho quân ta bị yếu thế mà ngược lại còn nhấn mạnh “cái có” vô giá tiềm ẩn bên trong người nông dân Nam Bộ. Đó là tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc và quyết tâm chống giặc.

“Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đao dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”

Chiến binh áo nâu mang theo “hỏa mai” được tạo ra từ rơm con cúi, tưởng chừng không làm nên chuyện, vậy mà lại có sức công phá lớn, đốt cháy những ngôi nhà “truyền đạo” của thực dân Pháp.

Thứ vũ khí mà nhà thơ gọi là “gươm đao” nghe thật oai, thực chất đó chỉ là lưỡi dao phay thường được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày, người dân đã dùng làm vũ khí giết chết hai tên quan phía giặc. 

Các động từ mạnh “đạp”, “xô” đã thể hiện những hành động mạnh mẽ, dứt khoát của nghĩa quân Cần Giuộc “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, không quan tâm đến sự có mặt của kẻ thù.

Điều đó càng tô đậm tinh thần quả cảm, không sợ giặc có vũ khí hiện đại, không sợ đạn to, đạn nhỏ mà liều mình xông vào chốn nguy hiểm với tâm trạng rất bình thản.

Bằng sự tinh tế trong các sáng tác nghệ thuật, Nguyễn Đình Chiểu đã thành công xây dựng hai hình ảnh tương phản nhau giữa những anh hùng Cần Giuộc và giặc Pháp xâm lược. 

Nếu quân địch sở hữu vũ khí tối tân như “tàu thiếc, tàu đồng”, “đạn nhỏ”, “đạn to” thì dân ta chiến đấu bằng công cụ thô sơ, lạc hậu là “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “lưỡi dao phay”. 

Sự đối lập to lớn khiến họ không trở nên tầm thường mà còn dệt nên những trang sử hào hùng, góp phần thắng lợi vẻ vang cho dân tộc ta nhờ ý chí sắt đá và tinh thần nhân dân Nam Bộ.

Dù trải qua hàng trăm năm nhưng những câu văn này vẫn mang sức gợi tả mãnh liệt, khiến độc giả như được tận mắt chứng kiến khí thế vũ bão, ào ào của nghĩa quân, sự hào hùng này cũng từng xuất hiện trong Bình Ngô đại cáo.

“Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.” – Nguyễn Trãi

Trận hỗn chiến diễn ra rầm rập bởi tiếng bước chân, ầm ầm tiếng thét giết kẻ thù với hành động “kẻ đâm ngang, người chém ngược”. Tinh thần quyết chiến đó đã khiến cho “mã tà ma ní” những kẻ bán nước, theo chân thực dân Pháp làm lính tiên phong đi “đỡ đạn” bị tiêu diệt, số còn lại cũng phải thất hồn, hoảng hốt.

Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện chân thật không khí sục sôi của trận chiến, thành công xây dựng tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân đánh giặc cứu nước.

Màu tang thương bao trùm lên mảnh đất Nam Bộ 

Hiện thực của chiến tranh là mất mát, đau thương, dù có thể viết khác đi về kết quả cuộc chiến nhưng với tư cách một nhà văn chân chính, Nguyễn Đình Chiểu không thể né tránh sự thật đau đớn khi những người chiến sĩ đã hy sinh.

“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”

Dù trận đánh có oanh liệt, hào hùng đi chăng nữa cũng không thể phủ nhận nghĩa quân Cần Giuộc đều xuất thân từ những người nông dân “chân lấm tay bùn”, không thông thạo võ nghệ nên cái chết là điều khó tránh khỏi.

Khung cảnh tang thương bao trùm mảnh đất Nam Bộ
Khung cảnh tang thương bao trùm mảnh đất Nam Bộ

Việc này đã dẫn đến sự thất bại cùng với nỗi đau bao trùm lên mảnh đất Nam Bộ. Nhịp thơ lắng xuống, chiến trận đang cao trào bỗng chốc trở nên im ắng, thưa thớt bóng người, màu sắc bi thương đến não ruột.

Từ đầu bài văn tế, tác giả đã bày tỏ lòng xót thương cho những người dân “côi cút làm ăn”, sống quanh quẩn trong vòng tuần hoàn của sự đói nghèo, khi giặc đến thì chỉ có công cụ đơn sơ mà vẫn dám liều mình giết giặc. 

Sau cùng, họ ngã xuống lòng đất mẹ, hy sinh anh dũng thì những câu thơ nối tiếp trở nên ảm đạm bởi nhà thơ gửi gắm niềm tiếc thương vô hạn cho số phận nghĩa sĩ Cần Giuộc. 

Cái chết của họ khiến cho đất trời như nhuộm màu tang thương, cây cỏ nhỏ lệ thành kính. Cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh, vạn vật dù cách xa cả dặm nhưng vẫn cúi đầu tiễn đưa người nghĩa sĩ.

Khu chợ Trường Bình cũng mang không khí ảm đạm, người già và trẻ con đều tuôn lệ, đau lòng cho nghĩa quân đã hy sinh vì Tổ quốc nhưng có lẽ bóng hình họ vẫn còn tồn tại để giữ từng tấc đất dân tộc.

“Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành, giữ luỹ bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui hào luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.”

Cái chết lớn lao góp phần hình thành lịch sử dân tộc mà qua đó, tác giả đã phê phán sự hèn hạ của đám tay sai bán nước hại dân. Điệp từ “vì ai”, “sống làm chi” dồn nén đầy căm phẫn như đang lần lượt kết tội bọn phản quốc.

Chúng chính là nguyên nhân gây nên sự đau thương, tang tóc, nhà văn càng phê phán giai cấp thống trị bao nhiêu thì càng đề cao sự ra đi vinh quang của nghĩa quân bấy nhiêu, khẳng định quan điểm “chết vinh còn hơn sống nhục”.

“Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.

Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.

Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.”

Âm thanh sầu thảm vang vọng qua đoạn văn khiến tâm hồn độc giả xót xa. Không chỉ mỗi tác giả đã nhân danh thời đại khóc thương cho các anh hùng mà còn là tiếng lòng nhân dân, gia đình hòa thành dòng lệ chung của đất nước.

Từng câu chữ vừa thể hiện niềm thương tiếc, vừa bộc lộ nỗi căm hận sâu sắc với bọn thực dân Pháp tàn ác. Đồng thời, tác giả cũng ngậm ngùi trước số phận nhỏ nhoi của những nông dân đứng lên vì đạo nghĩa. 

Họ đánh đổi tính mạng vì cuộc sống bình yên nơi luỹ tre làng và những gia đình lại mất đi chỗ nương tựa. Sự ra đi của người chồng, người con đã để lại nỗi đau thấu tận tâm cam cùng tiếng khóc xé lòng vang vọng trong không gian. 

Người vợ yếu ớt “chạy tìm chồng” trong sự bất lực, nửa tỉnh nửa mê vì không thể chấp nhận sự thật đau lòng. Hình ảnh người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, mẹ già chờ trông với nỗi tuyệt vọng rồi bật lên tiếng khóc đắng cay từ cõi lòng.

Nỗi đau đã liên tục tác động đến nhân dân nhưng nó không làm họ nản lòng mà còn tạo động lực, thúc giục toàn dân đoàn kết chống kẻ thù. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng tiếng tăm lẫy lừng lưu truyền đến muôn đời.

Cảm phục trước sự hy sinh cao cả của những nghĩa sĩ Cần Giuộc

Dù trận chiến có thất bại nhưng tinh thần đoàn kết của dân tộc vẫn sáng ngời. Đồng thời, cái chết đã hóa thành bất tử, khẳng định sự quả cảm, tấm lòng yêu nước của những nghĩa sĩ Cần Giuộc được tác giả thể hiện qua đoạn kết của bài tế.

“Ôi!

Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ơi!

Có linh xin hưởng.”

Nếu nỗi lòng thương tiếc dành cho những nghĩa sĩ được thể hiện ở đoạn ai vãn với cụm từ “Khá thương thay” thì sang đoạn kết, từ “Ôi” xuất hiện khiến giọng điệu bài văn tế trùng xuống đầy bi ai.

Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ sự thương xót đến các anh hùng áo vải đã hy sinh vì màu cờ sắc áo thiêng liêng, đồng thời bày tỏ lòng cảm phục và gửi gắm lời cầu nguyện của người đứng tế.

Dù thân xác có ngã xuống nhưng trong tưởng niệm thành kính của tác giả và nhân dân, linh hồn họ còn sống mãi vì sự nghiệp bảo vệ đất nước, tiếng thơm lừng lẫy lan truyền khắp lục tỉnh Nam Kỳ.

Từ đó, những người nông dân Cần Giuộc trở thành tượng đài vĩnh cửu, cái chết thiêng liêng góp phần làm nên lịch sử, tạo tiếng vang, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ để toàn dân đồng lòng kháng chiến, nhấn chìm bè lũ cướp nước.

“Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muốn kiếp nguyện trả thù kia ..”

Tuy người đã đi mất nhưng ý nguyện còn đó, tâm can phẫn uất và ray rứt vì chưa tiêu diệt được hết bọn giặc ngoại xâm. Đối với nhà văn, linh hồn nghĩa sĩ vẫn níu lấy cuộc sống để “giúp cơ binh” trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước.

Những vần thơ cuối đã khẳng định cái chết bất tử của các nghĩa sĩ Cần Giuộc đắm chìm trong tiếc thương, nỗi đau nhức nhối với bao kiếp người ở lại, song biểu dương, ca ngợi công trạng to lớn mà những người nông dân đã để lại. 

“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”

Bài văn tế kết thúc trong sự phảng phất của mùi hương mà nhân dân Nam Bộ đã dâng lên tưởng nhớ linh hồn những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Có lẽ, đó cũng là hương thơm mà các anh hùng đã để lại cho đời bằng lý tưởng và lối sống cao đẹp.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nén hương cháy mãi theo thời gian

Trước khi Pháp xâm lược nước ta, thơ của Nguyễn Đình Chiểu chủ yếu xoay quanh thể loại truyện thơ dài, nổi tiếng với nhân vật Lục Vân Tiên, nhằm truyền bá đạo lý và tư tưởng làm người.

Đến giai đoạn sau năm 1858, sự nghiệp văn chương của tác giả đã có sự thay đổi rõ rệt, các sáng tác của ông ra đời nhằm mục đích cổ vũ tinh thần chống giặc cứu nước, nổi bật với các bài văn tế, tiêu biểu là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nén hương bất diệt
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nén hương bất diệt

Bằng văn phong giản dị, thành ngữ gần gũi với đời thường nhưng giọng điệu hùng hồn, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng hình tượng các nghĩa sĩ Nam Bộ bi tráng nhằm gửi gắm lý tưởng sống cao đẹp.

Bài văn tế là tiếng khóc thương của toàn dân, đồng thời cũng là tiếng lòng của tác giả. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng dành những lời có cánh cho cuộc đời và thơ văn Đồ Chiểu.

“Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường…con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng.” – Phạm Văn Đồng

Nguyễn Đình Chiểu tuy là nhà thơ mù lòa nhưng tâm ông sáng ngời, có tấm lòng thấu hiểu, gắn bó với cuộc sống của nhân dân và dành tình cảm, sự trân trọng cho họ, vì lẽ đó mà những áng văn thơ luôn chạm đến đáy lòng độc giả.

“Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn của ông, chính ông đã diễn tả sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân. Vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước …” – Phạm Văn Đồng

Lần đầu tiên, người nông dân xả thân vì nghĩa lớn được khắc sâu và phản ánh toàn diện trên nền văn học dân tộc. Trước đây, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái cũng có hình ảnh người lính “trung quân” nhưng vẫn mờ nhạt.

Cho đến khi người lính xuất thân từ nông dân của Nguyễn Đình Chiểu được phác họa trong sự đơn phương đánh giặc, bị triều đình bỏ rơi. Ông đã dùng ngòi bút tài hoa cùng với sự đồng cảm sâu sắc tạo nên vẻ đẹp hùng tráng của những nghĩa sĩ.

Đây là cột mốc thể hiện bi kịch to lớn của dân tộc bị mất nước, báo hiệu một thời kỳ lịch sử đen tối, trăm năm làm nô lệ cho Pháp. Tuy nhiên, tinh thần đại đoàn kết dân tộc đã thay đổi tình thế, các cuộc khởi nghĩa bùng nổ để giành độc lập.

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.” – Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm)

Trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung sáng bừng bởi lý tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ Cần Giuộc, họ sẵn sàng ngã xuống để làm nên Đất Nước.

Giai Kỳ